Thursday, September 29, 2011

Tìm hiểu NGUỒN GỐC SỰ-SỐNG TRÊN ĐỊA CẦU

Vũ trụ được thành hình khoảng 13,7 tỷ năm nay. Địa Cầu chúng ta được tạo ra khoảng 4,6 tỷ năm. Sự-sống xuất hiện trên địa cầu lúc nào, và làm sao có sự-sống. Muốn biết, ta phải tìm hiểu môi trường của địa cầu ở thời kỳ nguyên thủy, từ lúc được thành lập cho tới khi sinh-vật đầu tiên xuất hiện.
MÔI TRƯỜNG CỔ ĐẠI CỦA ĐỊA CẦU
Địa cầu được thành lập từ một khối thiên-vân của mặt trời cách đây khoảng 4,6 tỷ năm.
http://www.palaeos.org/images/b/b3/Hadean.jpgTrong thời đại (aeon, eon) Hadean, cách nay từ 4,6 tỷ đến 3,8 tỷ năm, địa cầu còn rất nóng, bị các thiên thạch (meteorites) bắn phá và hỏa-diệm-sơn phun dữ dội. Khi mới tạo thành, địa cầu chỉ có một lớp khí mỏng Hydrogen (H2) và Helium (He). Trong vòng 150 triệu năm sau đó lớp đá basalt được tạo thành quanh võ, nhưng còn rất nóng. Tuy nhiên, ở thời đại này đã có mưa, biển và đại dương được thành lập, cách đây khoảng 4,2 tỷ năm, bao phủ quanh các vùng cao. Phần võ cao tạo nên một lục địa lớn, cách nay khoảng 4 tỷ năm. Võ trái đất nguội dần, nhưng vẫn còn rất nóng, cách đây 3 tỷ năm khoảng 1600°C, nhiều vùng võ còn mềm. Vào cuối thời đại này, khí quyển gồm hơi nước (H2O), carbon dioxide (CO 2) và nitrogen (N2) là chính.
Ở thời đại Archaean (từ 3,8 tỷ đến 2,5 tỷ năm) tiếp sau đó, địa cầu nguội dần, nhưng hỏa-diệm-sơn hoạt động mạnh. Khí quyễn lúc này gồm hơi nước, carbon dioxide, nitrogen, methane (CH4), ammonia (NH3), và ít khí khác, nhưng chưa có oxy (O2) và ozone (O3). Vì không có lớp ozone, địa cầu tràn ngập tia-tử-ngoại (Ultra violet, UV). Sự-sống (life) nguyên thủy có lẽ bắt đầu tạo thành trong thời đại này.
http://www.ucmp.berkeley.edu/precambrian/archaean.gifỞ thời đại Proterozoic (từ 2,5 tỷ năm đến 542 triệu năm trước đây), oxy hiện diện trong khí quyển và gia tăng nhanh nhờ hiện tượng quang-tổng-hợp (photosynthesis) ở các sinh-vật tự-dưỡng đơn-bào (autotrophic unicellular). Ozone cũng hiện diện, tạo thành nhờ phản ứng của oxy với tia-tử-ngoại, tạo lớp ozone trên thượng tầng khí quyển, ngăn chận tia tử-ngoại, bảo vệ sự-sống. Thời đại này cũng là thời đại của băng giá trên toàn địa cầu (xảy ra khoảng 2,3 tỷ năm trước) làm gia tăng lượng oxy và làm giảm lượng methane trong khí quyển, vì oxy phản ứng với methane tạo ra carbon dioxide. Vào cuối thời đại Proterozoic, có thêm 2 thời kỳ băng giá, vào 710 và 640 triệu năm trước đây, biển hoàn toàn đóng băng. Sinh vật tiến hóa từ đơn-bào đến đa-bào (multicellular), bao gồm 3 nhóm: Vi-khuẫn (bacteria), Archaea (tế bào chưa có nhân, nucleus) và Eukarya (tế bào có nhân, mitochondria, bộ Golgi và lục-bào).
http://homepage.ufp.pt/biblioteca/GlossarySaltTectonics/PlatesJPG/Fig.P011-Phanerozoic.jpgỞ thời đại tiếp theo Phanerozoic cho đến nay, sinh vật được tiến hóa từ sinh-vật-đơn-bào đơn giản đến các sinh vật cao đẳng như con người. Tác giả sẽ đề cập trong bài tới.
SỰ-SỐNG LÀM SAO XUẤT HIỆN VÀ KHI NÀO?
Sự-sống (life) được định nghĩa là một hệ thống sinh học trong đó các proteins và nucleic acids được liên hợp tạo thành một cấu tạo có khã năng tăng trưởng (growth) và sinh sản (reproduction, replicate). Ngoài ra, để sinh-tồn (survival) qua thời gian và biến đổi của môi trường, cấu tạo sinh học đó phải có khã năng tiến hóa (evolution) để thích ứng (adaptation) môi trường mới.
http://www.kheper.net/topics/Gaia/tline01b.gifKhảo sát cấu tạo giữa động vật tiến hóa nhất, như con người, với sinh vật sơ đẳng đơn-bào như amoeba (amibe), giữa động vật và thực vật, với vi khuẩn, v.v., mặc dầu rất khác biệt to lớn về mọi mặt, nhưng có một điểm đồng nhất: tất cả đều cấu tạo bởi tế-bào (cell). Như vậy, mọi sinh vật trên địa cầu bắt nguồn từ một tổ tiên sơ đẳng nhất, một sinh vật có một tế-bào.
Chất hóa học căn bản cấu tạo chất hửu cơ của tế bào, như các chất đường, chất béo, amino acids, proteins là Carbon (C), Hydrogen (H), Oxygen (O), và Nitrogen (N). Chất hữu-cơ căn bản của sự-sống là phân tử amino acids, phần cấu tạo của RNA và DNA để tế bào sinh sản, truyền giống. Như vậy, trước khi có sự-sống, chất amino acids được tạo thành trước.
May mắn là quả Địa cầu chúng ta hội đủ các điều kiện để có sự-sống mà nhiều hành tinh khác không có. Quả địa cầu có nước, không khí chứa oxy, dioxide carbon (CO2) cùng nhiều khí hiếm khác, và rất giàu nguồn C, cung cấp các vật liệu cần thiết cấu tạo sự-sống. Ngoài ra, quan trọng nhất, trái đất có nhiệt độ thích hợp cho mọi sinh vật sinh sống và nẫy nỡ. Sao Hôm (còn gọi Sao Mai, Venus) ở gần Mặt Trời, không hội đủ điều kiện yểm trợ sự-sống và có nhiệt độ quá nóng, 460°C. Hỏa tinh (Mars) ở quá xa Mặt Trời, quá lạnh lẻo, tuy nhiên những thăm dò mới đây cho biết có thể có sự-sống.
Có 2 gỉa thuyết về nguồn gốc sự-sống trên địa cầu:
SỰ-SỐNG BẮT NGUỒN TỪ VŨ TRỤ
Giả thuyết này cho rằng sự-sống bắt nguồn từ không gian ngoài địa cầu, từ một hành-tinh khác hay thiên-hà khác, xâm nhập vào địa cầu qua các thiên-thạch, bụi vũ trụ, sao chổi, v.v. Nhiệt độ không gian rất thấp, càng lên cao càng thấp, -50°C ở tầm bay cao độ 10 km. Các sinh vật đơn-bào có thể sống vĩnh viễn ở nhiệt độ Nitrogen lỏng (-190 °C).
Thuyết này được củng cố sau khi NASA năm 2009 tuyên bố đã tìm được chất hữu cơ Glycine, một amino acid, từ bụi của Sao Chổi Comet Wild-2 xuất hiện năm 2004. Mẫu bụi này được phân tích năm 2006 và cho thấy sự hiện diện của Glycine. Như vậy, sự-sống cũng hiện diện ngoài vũ trụ, không riêng gì ở địa cầu.
Ngoài ra, năm 2010, qua phương pháp phân tích quang phổ, các khoa học gia còn khám phá ra phân tử hữu cơ PAH (polycyclic aromatic hydrocarbons) hiện diện ở sao chổi, thiên thạch, thiên vân, và trên thiên hà M81, cách địa cầu 12 triệu năm-ánh-sáng. Phân tử PAH khá phức tạp, là chất tiền căn (precursor) cấu tạo RNA.
SỰ-SỐNG ĐƯỢC TỔNG HỢP TỪ NƯỚC-SÚP NGUYÊN-THỦY (Primordial soup)
http://www.bigboxgames.com/ProductImages/ZMG/7001/large.jpgTheo giả thuyết Oparin-Haldane, sự-sống là kết quả của một chuỗi phản ứng hóa học xảy ra trên địa cầu khi có điều kiện thích ứng.
Chất căn bản của sự-sống là phân tử amino acids, thành phần cấu tạo RNA (Ribonucleic acid) và DNA (Deoxyribonucleic acid) để tế bào sinh sản, truyền giống.
Amino acids là những phân tử chứa một nhóm amine (NH2), một nhóm carboxylic acid (COOH) và một chuỗi khác nhau giữa các amino acids, đễ phân biệt amino acid này với amino acid khác. Bốn chất căn bản cấu tạo amino acid là C, H, O, N.
RNA là một chuỗi dài chứa nucleotides. Nucleotides là các phân tử khi nối liền với nhau tạo thành các đơn vị kiến trúc của RNA và DNA. Nucleotides giữ vai trò quan trọng trong biến-dưỡng (metabolism), vì là nguồn cung cấp năng lượng hóa học (Adenosine triphosphate – ATP; guanosine triphosphate – GTP), phát tín hiệu, góp phần vào các phản ứng xúc-tác (Catalyse) của enzymes. RNA giữ nhiệm vụ quan trọng trong tế bào bằng cách xúc-tác các phản ứng sinh học, kiểm soát tín hiệu của gene và truyền tín hiệu. Nhiệm vụ quan trọng nhất của RNA là tổng hợp proteins: mRNA (messenger RNA) mang truyền tín hiệu tổng hợp proteins này đến ribosomes, tRNA (transfer RNA) giao các amino acids cho ribosomes, và rRNA (ribosomal RNA) kết hợp tất cả amino acids lại để tổng hợp. Ribosome là nơi sản xuất amino acids và proteins trong tế bào.
DNA là nucleic acid chứa các đặc tính di truyền. Gene, nơi chứa đặc tính di truyền, là một đoạn nhỏ trên DNA. DNA gồm 2 chuỗi dài polymers gồm các đơn vị giản dị gọi là nucleotides. Hai chuỗi chạy hướng đối nghịch nhau theo đường xoắn ốc.
RNA (gồm 1 chuổi) DNA (gồm 2 chuổi)
Theo giả thuyết thứ hai này thì:
1. Trái đất thời nguyên thủy có một khí-quyễn-khữ (reducing atmosphere) gồm khí nitrogen (N2), hydrogen (H2), methane (CH4), ammonia (NH3), nước (H2O), hydrogen sulfide (H2S), carbon dioxide (CO2) hay carbon monoxide (CO), và phosphate (PO43-), nhưng không có, hay rất hiếm, oxygen (O2) và ozone (O3).
2. Khi khối không-khí-khữ này giao tiếp với năng lượng, như tia lữa điện của sấm chớp, nhiệt của hỏa-diệm-sơn, hay tia UV, sẽ cho ra một số chất hửu cơ giản dị - hợp-chất-đơn (monomers), như đường glucose (C6H12O6) hay amino acids.
3. Các hợp-chất-đơn hửu cơ này tích tụ chung với nhau như “nước canh - soup”.
4. Các phân tữ hợp-chất-đơn kết hợp với nhau thành đa-hợp-chất hửu cơ (polymers), và cuối cùng cấu tạo sự-sống.
5. Kết hợp các phospholipids với nhau tạo thành chất lipid có 2 lớp (lipid bilayers), là thành phần cấu tạo màng tế bào.
Năm 1953, Stanley L. Miller và Harold C. Urey (Đại học Chicago và Đại Học California ở San Diego) làm một thí nghiệm nỗi danh: Trong ống nghiệm gồm các khí methane (CH4), ammonia (NH3), hydrogen (H2) và hơi nước (H2O), nhưng không có Oxy. Khi cho một tia lữa điện, bắt chước sấm sét trong thiên nhiên, vài ngày sau phân tích thấy xuất hiện các amino acids, chất căn bản tạo proteins của sự-sống. Về sau, nhóm Stanley Miller cũng cho biết tỗng hợp adenine và guanine cần điều kiện băng giá, nhưng tổng hợp cytosine và uracil cần điều kiện nóng của nước sôi. Nhóm nghiên cứu này thành công tỗng hợp được 7 amino acids và 11 nucleobases trong nước đá khi ammonia và cyanide được để trong máy làm đông nước đá (freezer) từ 1972 đến 1997.
Kế tiếp là thí nghiệm của Joan Oró I Florensa (NASA, 1959-1962) cho biết tổng hợp được chất nucleobase adenine, thành phần cấu tạo của nucleic acids trong phân tử ATP và GTP, bằng cách đun nóng dung dịch ammonium cyanide.
Để chứng minh rằng trong điều kiện băng giá cũng có thể tổng hợp được s-triazines, pyrimidines (gồm cytosine và uracil), và adenine từ dung dịch urea khi cho dung dịch này qua nhiều chu kỳ kết-đông-nước-đá rồi cho tan (freeze-thaw cycles) trong điều kiện không-khí-khữ với tia lữa điện.
Trong thập niên 1950s và 1960s, thí nghiệm của Sidney W Fox cho thấy chất peptide được cấu tạo ngẫu nhiên trong điều kiện môi trường tương tự của thời Hadean và Archean cách đây trên 2,5 tỷ năm. Ông chứng minh các amino acids kết hợp ngẫu nhiên và tạo thành peptides. Các amino acids và peptides này kết hợp lại thành một màng hình cầu, tương tự màng tế bào (cell membrane) của sinh vật ngày nay.
Năm 2001, Jason Dworkin cho dung dịch đông lạnh gồm nước, methanol, ammonia và carbon monoxide với tia tử ngoại UV. Phản ứng cho ra một số lượng đáng kể chất hửu cơ, các chất này kết hợp lại thành bong bóng hay có hình sợi ở trong nước. Ông cho rằng các màng bong bóng này giống màng tế bào chứa các chất căn bản của sự-sống. Các bong-bóng có kích thước từ 10 đến 40 µ, bằng kích thước của hồng-huyết-cầu. Đặc biết là các bong bóng này phát quang (fluorescence) khi tiếp xúc với UV. Ông cho rằng các bong bóng phát quang này chính là mẫu mực quang-tỗng-hợp ở thời cổ đại.
Năm 2004, mhóm Leslie Orgel, thành công tỗng hợp chất Purine trong môi trường băng giá từ hydrogen cyanide.
Tất cả các thí nghiệm trên đều xử dụng tia lữa điện là nguồn năng lượng, bắt chứơc sấm sét hay tia hồng-tử-ngoại. Ngược lại, Gunster Wächtershäuser, trong thập niên 1980s, xữ dụng năng lượng hóa học từ sulphides sắt, như Pyrite. Năng lượng này không những tổng hợp được các phân tử hửu cơ mà còn tạo được các oligomers và polymers. Thí nghiệm sản xuất được dipeptides (0.4 đến 12.4%) và một ít tripeptides (0.1%).
Mới đây khám phá vi khuẫn Methanosarcina acetivorans ở dưới đáy biển. Vi khuẩn thời cỗ đại này hấp thụ carbon monoxide và nhã ra methane và acetate. James Ferry và Christopher House của Đại học Penn State University khám phá thêm rằng vi khuẫn này lấy năng lượng từ phản ứng giữa acetate và sulphide sắt chỉ nhờ 2 amino acids đơn giản, khác với sư cần tới trên 10 amino acids như hiện nay.
Christof Biebricher, năm 2008, thành công trong việc tạo một RNA mới chứa 400 bases từ một mẩu RNA thiên nhiên trong điều kiện băng giá. Mẩu RNA mới này tăng trưởng bao quanh RNA thiên nhiên.
Nhóm nghiên cứu Đại Học Harvard, năm 2008, cho biết đang nghiên cứu việc tạo tế bào nhân tạo. Nhóm nghiên cứu này cho trộn vài acit béo (fatty acids) với DNA (thiên nhiên) trong một ống nghiệm, kết quả cho thấy thành lập một khối DNA mới chứa nhiều thông-tin-di-truyền. Nếu thêm vào đó nucleotides (thiên nhiên) thì nucleotides chạy vào và DNA tự chia đôi (replicate) trong vòng một ngày. Tuy nhiên, thí nghiệm tạo DNA mới phải dựa vào DNA và nucleotides thiên nhiên trích từ nhiểm thể.
Cho tới nay, chưa có khoa học gia nào tạo được tế bào nhân tạo, ngay cả RNA hay DNA nhân tạo. Năm 2009, Sutherland và nhóm nghiên cứu thuộc Đại Học Manchester (Anh quốc) đã thành công tổng hợp được 2 khối cấu tạo RNA trong số 4 khối căn bản của RNA, và nhóm ông tin tưởng rằng sẽ thành công tổng hợp được RNA nhân tạo từ các dung dịch hóa học. Một khi tổng hợp được RNA nhân tạo thì không khó lắm trong việc tổng hợp DNA nhân tạo, và dựa theo nghiên cứu của nhóm Harvard, tổng hợp thành tế bào nhân tạo sẽ trong tầm tay.
Một cách tổng quát, các giả thuyết cho rằng chính nhờ năng lượng của hỏa-diệm-sơn, sấm sét, tia tử ngoại tỗng hợp các khí thời nguyên thủy thành các chất hửu cơ đơn giản (monomers) như amino acids, nucleobases, rồi các chất đơn giản này tổng hợp thành các chất phức tạp hơn (polymers). Chất sét giàu sắt (iron-rch clays) là nơi các phân tử hửu cơ phức tạp tập trung và cô động đậm đặc, trở nên có khả năng sinh sôi nẫy nở bằng cách tách đôi (replicate). Khối sét này hấp thụ carbon dioxide biến thành oxalic và các dicarboxylic acids khác. Trong các suối nước nóng giàu chất sulphides, khối mang chất sống này có khả năng định khí Nitrogen. Phosphate cũng được hấp thụ và tạo thành nucleotides và phospholipids. Đó là giả thuyết giải thích tiến trình tiến tới thành lập tế bào của sinh vật đơn-bào. Sinh vật đầu tiên sống dị-dưởng (heterotroph), tự-dưởng (autotrophic) hay cộng-sinh (symbiosis). Sinh vật ký sinh (parasites) xuất hiện về sau.
Trong các giả thuyết về “Nước soup Nguyên Thủy - primordial soup” thì sự-sống bắt nguồn đầu tiên trong nước, như đại dương, biển, bờ biển, các hồ nước, hay trên mặt đất nơi nào có nước.Tuy nhiên, Gold, trong thập niên 1970s, đưa giả thuyết sự-sống có thể bắt đầu trong môi trường nóng của vỏ trái đất, không trên mặt đất mà ở độ sâu vài km dưới mặt đất. Ở cuối thập niên 1990s, người ta khám phá một số vi sinh vật nhỏ hơn vi trùng có cấu tạo DNA trong lớp đá sâu trong lòng đất. Ngày nay, NASA cũng khám phá thêm thấy rằng dấu vết vi-khuẩn hóa thạch thời nguyên thủy archaea có rất nhiều trong lòng đất, không những của quả địa cầu mà còn thấy ở nhiều hành tinh khác.
SINH VẬT NÀO XUẤT HIỆN ĐẦU TIÊN VÀ KHI NÀO?
http://www.williamsclass.com/SeventhScienceWork/ImagesCells/prokaryote.gifTỗ tiên của sinh vật trên địa cầu, gồm cả thực vật và động vật, là một sinh vật đơn-bào (chỉ một tế bào). Đó là một tiền-tế-bào (prokaryote) chỉ gồm màng tế bào bên trong chứa ribosomes, chưa có nhân (nucleus), mitochondria hay lục lạp (chloroplasts), xuất hiện cách đây 3,5 tỷ năm. Năm 2002, William Schopf ở Đại học UCLA cho biết vi khuẩn cyanobacteria hóa thạch tìm thấy trong địa tầng Siyeth tạo thành cách đây 3,5 tỷ năm. Các nghiên cứu sau này cho biết các vi sinh hóa thạch có chứa lục-lạp xuất hiện cách đây 2,5 tỷ năm. Vào thời đại này, thế giới chỉ toàn vi khuẩn (bacteria), chưa có sinh vật nào khác. Ở các thời đại sau, vi khuẩn tiến hóa thành các sinh vật đa-bào (chứa nhiều tế bào), càng ngày càng phức tạp và đa dạng để với thời gian thành đa-dạng-sinh-vật phong phú như ngày nay.
Reading, 6/2011
Trần-Đăng Hồng, PhD
Chưa bao giờ giới khoa học cảm thấy họ đang chạm gần đến đích của cuộc trường chinh truy tìm nguồn gốc của sự sống trên Trái đất như lúc này. Charles Darwin đã làm được điều kỳ diệu là giải thích được sự đa dạng sinh học bằng thuyết chọn lọc tự nhiên, nhưng ngay cả thiên tài người Anh cũng không tìm ra câu trả lời cho sự xuất hiện của sự sống trên hành tinh xanh. Sau nhiều năm loay hoay tìm kiếm mà không có kết quả, các chuyên gia đặt câu hỏi rằng phải chăng sự sống trên Trái đất bắt nguồn từ vũ trụ, và loài người hiện tại đến từ các hành tinh xa xôi? Trước sự ngạc nhiên của các chuyên gia, ngày càng có nhiều chứng cứ ủng hộ giả thuyết trên. Cuộc nghiên cứu mới nhất, vốn tập trung vào một loại thiên thạch rơi tại Nam Cực, cũng cho thấy nguồn gốc của sự sống có thể là một nơi nào đó trong không gian. Kết quả phân tích thiên thạch tại Nam Cực đã tiết lộ một bí mật quan trọng. Dưới áp suất và nhiệt độ cao, những viên đá này đã bị buộc phải thải ra khí amoniac có chứa nitrogen, một nhân tố chủ chốt cho sự nhân đôi của phân tử để từ đó dẫn đến ADN, phân tử đóng vai trò trọng tâm cho mọi loài. "Những thiên thạch đặc biệt này được bảo quản bên trong băng và được phát hiện trong điều kiện như thuở ban đầu", Telegraph dẫn lời trưởng nhóm nghiên cứu là giáo sư Sandra Pizzarello của Đại học bang Arizona. Những cuộc thí nghiệm cho thấy, nitrogen trong amoniac được thải ra từ thiên thạch cấu tạo từ các chất đồng vị bất thường, chứng tỏ chúng có nguồn gốc từ ngoài Trái đất.
Giáo sư Pizzarello và đồng sự cho rằng, các cơn mưa thiên thạch cách đây khoảng 4 tỉ năm đã cung cấp những nguồn khí amoniac thường xuyên và từ đó nitrogen xuất hiện ngày càng nhiều hơn cho Trái đất. Trước đây, các chuyên gia ước tính sự sống tồn tại ít nhất 3,5 tỉ năm về trước. Tuy nhiên, chẳng ai biết được thời gian trước khi sự sống xuất hiện, ngoại trừ môi trường Trái đất lúc đó hết sức bất lợi cho sự sống. Khi đó, hành tinh xanh bị bao phủ bởi các đợt tia cực tím khủng khiếp từ mặt trời, phá hủy trong tích tắc bất kỳ phân tử sinh học nào. Đó là chưa kể những đợt thiên thạch dội bom cách đây từ 4,5 đến 3,8 tỉ năm. Thế nhưng, giờ đây giới khoa học cho rằng, nhờ những cơn mưa thiên thạch như vậy thì sự sống mới có thể xuất hiện và sinh sôi mạnh mẽ đến ngày nay.
Toàn bộ con người trên trái đất đều là những sinh vật ngoài hành tinh đã đến định cư trên hành tinh xanh cách đây hàng triệu năm. Đó là tuyên bố gây sốc của giáo sư Chandra Wickramasinghe thuộc Đại học Cardiff, chuyên gia hàng đầu của Anh trong lĩnh vực sinh vật học vũ trụ.
Theo báo cáo được đăng trên tuần san Sinh vật học thiên thể quốc tế của Đại học Cambridge, những hạt giống đầu tiên của cuộc sống đã được cấy lên trên trái đất từ không gian cách đây 3.800 triệu năm. Vị giáo sư này cho rằng các vi sinh vật từ vũ trụ đã đến trái đất thông qua các sao chổi, và sau đó nhân lên dần dần để hình thành nên con người. Nhà sinh vật học vũ trụ còn tuyên bố sự sống đã được chuyển từ hành tinh này sang hành tinh khác trong hàng tỉ năm, mặc dù ông thừa nhận mô hình nghiên cứu của mình vẫn không giải thích được cách sự sống đã bắt đầu đâm chồi nảy lộc từ giây phút đầu tiên.
Các nhà khoa học vừa tìm thấy một hợp chất cơ bản của sự sống trong bụi thiên thạch. Đây là bằng chứng mới nhất về khả năng sinh vật sống tồn tại bên ngoài trái đất.
Hình minh họa cảnh tàu Stardust tới gần sao chổi Wild 2 để lấy bụi và khí. Ảnh: NASA.
Hình minh họa cảnh tàu Stardust tới gần sao chổi Wild 2 để lấy bụi và khí. Ảnh: NASA.
Tàu vũ trụ Stardust của Mỹ thu được bụi và khí từ sao chổi Wild 2 vào năm 2004. Sau khi phân tích, các nhà khoa học của Cơ quan Hàng không vũ trụ Mỹ (NASA) phát hiện trong bụi và khí có dấu vết của glycine amino axit. Điều này khiến người ta càng tin vào giả thuyết về sự tồn tại của sự sống ở một nơi nào đó trong vũ trụ.
“Dấu vết của glycine trong sao chổi giúp chúng tôi có thêm bằng chứng về việc các chất tạo nên sự sống tồn tại trong vũ trụ. Có lẽ những thiên thể có sự sống không hiếm như chúng ta tưởng”, Carl Pilcher, một nhà sinh học thiên văn của NASA, phát biểu.
Jamie Elsila, trưởng nhóm nghiên cứu, phỏng đoán rằng những hợp chất cơ bản tạo nên con người có thể tới từ vũ trụ.
“Kết quả nghiên cứu của chúng tôi ủng hộ giả thuyết về việc một số nguyên liệu của sự sống đã hình thành trong không gian. Sau đó các sao chổi và thiên thạch đã đưa chúng xuống trái đất”, Elsila nói.
20 loại amino axit được sắp xếp theo nhiều cách khác nhau để tạo nên hàng triệu loại protein. Những protein này “sản xuất” mọi thứ trên cơ thể sinh vật, từ lông cho tới enzyme.
Elsila cho rằng địa cầu không phải là thiên thể duy nhất có amino axit.
“Chúng tôi nhận thấy glycine trên sao chổi có đồng vị carbon mà chúng ta chưa từng biết. Điều đó chứng tỏ amino axit có nguồn gốc từ sao chổi đó”, Elsila phát biểu.

No comments:

Post a Comment