Thursday, September 8, 2011

Du lịch Đài Bắc & Việt Nam năm 2011(2)

3 hôm sau, tôi lại bay ra Hà Nội để đi tham quan vùng Tây Bắc & Đông Bắc, chủ yếu là Sapa và vùng "thánh địa" của mấy ông bà CSVN(Cao Bằng, Điện Biên) với hang Pác Bó + núi Lenin, hang Các Mác..., thác Bản Giốc(xin xem: Du lịch vùng đông bắc & Tây Bắc Việt Nam; http://xaydungqh.blogspot.com/2011/05/ong-bac-tay-bac-viet-nam.html)
Tôi đã đi Hạ Long nhiều lần rồi nên kỳ này, tôi quyết định chỉ đi Sapa và vùng đông bắc & Tây Bắc Việt Nam. Năm nay (2011), giá tour trong nước tăng cao do nhiều nguyên nhân(điện + nước + xăng dầu tăng, vật giá tăng nên cái gì cũng tăng theo); thậm chí so với giá tour nước ngoài(như đi Thái Lan, Campuchia, Sing - Mã, etc...) thì bà con thà rủ nhau đi nước ngoài vẫn thích hơn; nhất là thái độ phục vụ.
Nói đến du lịch vùng đông bắc Việt Nam, người ta sẽ nghĩ ngay đến Cao nguyên Đá Đồng Văn(Hà Giang), thác Bản Giốc và Hồ Ba Bể ( Bắc Cạn), v.v...; trong khi Tây Bắc Việt Nam có Sapa, đỉnh Fan Si Pan, Sơn La, Mộc Châu, Điện Biên, v.v...; những danh thắng nổi tiếng đang được cơ quan UNESCO xem xét công nhận là Di sản Thiên nhiên Thế giới. Vùng Tây Bắc là vùng miền núi phía Tây của miền Bắc Việt Nam, có chung đường biên giới với Lào và Trung Quốc. Vùng này có khi được gọi là Tây Bắc Bắc Bộ và là một trong 3 tiểu vùng của Bắc Bộ Việt Nam (2 tiểu vùng kia là Vùng Đông Bắc và Đồng bằng sông Hồng).
- Vùng Đông Bắc là vùng lãnh thổ ở hướng Bắc vùng đồng bằng sông Hồng, Việt Nam. Gọi là Đông Bắc để phân biệt với vùng Tây Bắc, còn thực chất nó ở vào phía bắc và đông bắc của Hà Nội, rộng hơn vùng Việt Bắc. Vùng Đông Bắc là một trong 3 tiểu vùng của Bắc Bộ Việt Nam (2 tiểu vùng kia là Vùng Tây Bắc và Đồng bằng sông Hồng).
Thế nhưng trước đây hiếm nhà lữ hành nào nghỉ đến việc thiết kế kết nối hai điểm này trở thành tour du lịch liên tuyến do mất nhiều thời gian di chuyển bằng đường bộ. Còn bây giờ, Hà Giang – Tuyên Quang – Bắc Cạn đã được kéo lại gần bởi nhờ con đường thủy lộ trên dòng sông Gâm – sông Năng. Năm 2010, nhiều công ty du lịch VN đã tổ chức tour du lịch vùng đông bắc & Tây Bắc Việt Nam. Từ Hà Nội đi lên Sơn La - Điện Biên - Lai Châu - Yên Bái - Tuyên Quang - Mèo Vạc - Hà Giang - Ba Bể - Cao Bằng - Thái Nguyên rồi trở về Hà Nội (tổng cộng 10 ngày 09 đêm).
Ngày đầu tiên,
từ Saigon, tôi bay ra Hà Nội và công ty du lịch đón tôi tại sân bay Nội Bài rồi đưa về Hà Nội trước khi đi Sơn La, qua Mộc Châu (đường quốc lộ 6: Hà Nội – Hòa Bình – Sơn La – Lai Châu, khoảng 300km) và ghé ăn trưa tại Thị trấn Phù Yên.

photoRuộng vá ở Sơn La
Chiều, chúng tôi tới TP Sơn La. Sau khi nhận phòng và dùng bữa tối, chúng tôi đi thăm qua TP Sơn La về đêm và đi tắm suối khoáng nóng rồi mới về nghỉ đêm tại khách sạn. Sơn La cách Hà Nội khoảng 302 km về phía Tây Bắc. Phía Tây và phía Bắc giáp huyện Thuận Châu, phía Đông giáp huyện Mường La, phía Nam giáp huyện Mai Sơn. Quốc lộ 6 đi qua thành phố, nối thành phố với thành phố Điện Biên Phủthành phố Hòa Bình.Thành phố Sơn La có một di tích lịch sử đáng chú ý, đó là bia văn của hoàng đế Lê Thái Tông tại cửa động La. Tháng 5 năm 1440, trên đường trở về sau khi dẫn quân chinh phạt vùng Tây Bắc thắng lợi, Lê Thái Tông đã nghỉ tại động La và sáng tác bài thơ "Quế Lâm Ngự Chế" gồm 140 chữ Hán.Tại Thành phố Sơn La có trường Đại học Tây bắc, bệnh viện đa khoa khu vực 500 giường.Thành phố Sơn La nằm trong vùng kaste hóa mạnh, địa hình chia cắt phức tạp, núi đá cao xen lẫn đồi, thung lũng, lòng chảo. Diện tích đất canh tác nhỏ hẹp, thế đất dốc dưới 250 chiếm tỷ lệ thấp. Một số khu vực có các phiêng bãi tương đối bằng phẳng thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, tập trung ở các xã Chiềng Ngần, Chiềng Đen, Chiềng Xôm và phường Chiềng Sinh. Độ cao bình quân từ 700 - 800 m so với mực nước biển.Gió thịnh hành theo 2 hướng gió chính: gió mùa đông bắc từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau; gió tây nam từ tháng 3 đến tháng 9. Từ tháng 3 đến tháng 4 còn chịu ảnh hưởng của gió Tây (gió Lào nóng và khô). Một số khu vực của thị xã còn bị ảnh hưởng của sương muối từ tháng 12 đến tháng 1 năm sau.
http://du-lich.chudu24.com/f/d/090218/image018.jpgSáng hôm sau, sau khi ăn sáng, chúng tôi tới thăm qua Nhà tù Sơn La - nơi Pháp đã từng giam giữ những chiến sỹ cách mạng, chúng tôi chụp hình l­ưu niệm tại Cây Đào Tô Hiệu.Nằm trên đồi Khau Cả nơi bao quát toàn cảnh thị xã Sơn La, nhà tù Sơn La được mệnh danh là “địa ngục trần gian” ở núi rừng Tây Bắc. Đây được coi như là “ngôi sao đỏ” trong hệ thống di tích cách mạng thời kháng chiến của Việt Nam, được xếp hạng di tích quốc gia năm 1962, hằng năm đón hàng trăm du khách trong và ngoài nước ghé thăm. Thị xã Sơn La nhỏ xinh chào đón tôi bằng những cơn mưa bất chợt và mỏng manh, gột rửa đi cái oi bức của mùa hè.
photo
Nhà tù Sơn La - Cây đào Tô Hiệu(chỉ còn gốc đào thôi !).

Cô hướng dẫn viên xinh đẹp người Thái dẫn chúng tôi đi thăm các xà lim ngầm, xà lim chéo, trại ba gian… Đến mỗi một địa danh, chúng tôi lại được nghe những câu chuyện nhằm tuyên truyền về những cán bộ ưu tú của Đảng như: Tô Hiệu, Lê Duẩn, Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, Văn Tiến Dũng, Lê Đức Thọ, Nguyễn Văn Trân, Xuân Thủy, Trần Huy Liệu….
http://a9.vietbao.vn/images/vn902/2008/8/20799460-images1610973_3.Cay-dao-To-Hieu.jpgSau đó, chúng tôi tiếp tục khởi hành đi Điện Biên. Trên đường đi chúng tôi dừng chân nghỉ và ngắm cảnh trên đỉnh đèo Pha Đin (một trong những đèo dài nhất Việt Nam), ngắm cảnh đẹp của núi rừng Tây Bắc với các bản dân tộc Thái, Mường, thăm khu du lịch Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ, hầm chỉ huy của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Dùng bữa trưa tại khu du lịch Pa khoang. http://www.dulichkhachsan.com/images/diadanhdulich/deo-pha-din.jpgĐiện Biên Phủ là thành phố tỉnh lỵ tỉnh Điện Biên ở tây bắc Việt Nam. Thành phố này nằm trong khu thung lũng Mường Thanh với chiều dài khoảng 20 km và chiều rộng 6 km. Chính vì điều này mà có khi nó còn được gọi là "lòng chảo Điện Biên". Điện Biên Phủ được xem là một thành phố nằm ở biên giới vì chỉ cách biên giới với Lào khoảng 35 km. Điện Biên Phủ có diện tích 60,0905 km², gồm 7 phường và 1 xã. Các phường là: Mường Thanh, Tân Thanh, Him Lam, Thanh Bình, Nam Thanh, Thanh Trường, Noong Bua và xã Thanh Minh.
http://www.hcmute.edu.vn/UploadFile/Dien_Bien_Phu,_statue.jpgCác điểm du lịch
Đồi A1
Đồi A1 nằm ở phường Mường Thanh, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên.
Đồi A1 nằm dài theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, bao gồm 2 đỉnh: Tây Bắc cao hơn 490m, Đông Nam cao hơn 493m. A1 là ký hiệu mà quân đội Việt Nam đặt cho quả đồi.
Sau nhiều trận chiến vô cùng ác liệt đã diễn ra ở đây thì đến 4h sáng ngày 7/5/1954 quân đội Việt Nam đã chiếm được đồi A1.
Ngày nay, đến với Điện Biên Phủ, du khách sẽ thấy trên đỉnh Tây Bắc của đồi A1 có đài kỷ niệm được xây theo kiểu “Tam sơn”, ở giữa cao, hai bên thấp và đều có hình mái đầu đao. Phía trước là lư hương, ở giữa là tấm bia, phù hiệu Quốc kỳ, sao vàng nền tròn đỏ , xung quanh là vòng tường hoa.
Bảo tàng chiến thắng Điện Biên Phủ
Nằm tại khu phố 1, P. Mường Thanh, TP. Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên.
Bảo tàng Điện Biên Phủ được xây dựng vào năm 1984 nhân dịp kỷ niệm 30 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
Vào cuối năm 2003, bảo tàng Điện Biên Phủ đã tiến hành nâng cấp và chỉnh lý lại khu trưng bầy. Đến nay bảo tàng có 5 khu trưng bầy với 274 hiện vật và 122 bức tranh theo từng chủ đề sau
-Vị trí chiến lược của Điện Biên Phủ.
-Tập đoàn cứ điểm của địch tại Điện Biên Phủ.
-Đảng chuẩn bị đường lối chỉ đạo cho chiến dịch Điện Biên Phủ.
-Ảnh hưởng của chiến thắng Điện Biên Phủ.
-Điện Biên Phủ ngày nay.
-Hầm chỉ huy tướng Đờ Cát : Nằm ở trung tâm tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, thuộc cánh đồng Mường Thanh, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.
Sở chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ
Nằm trong một khu rừng nguyên sinh tại địa phận xã Mường Phăng, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên, cách thành phố Điện Biên Phủ 25km về phía đông.
Để đến đây du khách phải đi bằng ô tô, vượt qua dốc Tà Lơi hiểm trở và nhiều đoạn đường quanh co, khúc khuỷu. Gần với Sở chỉ huy có đài quan sát trên đỉnh núi độ cao trên 1.000m, từ đài quan sát này có thể bao quát hoạt động và diễn biến ở thung lũng Mường Thanh. Đến sở chỉ huy, du khách sẽ được thăm các điểm sau :
-Chòi canh gác số 1
-Hầm thông tin liên lạc
-Đài quan sát
-Lán ở và làm việc của Đại tướng Võ Nguyên Giáp
-Lán ở và làm việc của Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái
-Đường hầm xuyên núi dài 96m nối liền lán của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái Hầm của ban cố vấn Trung Quốc
-Nhà hội trường
-Hầm ban chính trị
Đèo Pha Đin
Đèo Pha Đin nằm trên đường từ Hà Nội lên Điện Biên, ở ranh giới giữa tỉnh Sơn La và Điện Biên.
Đèo dài 32km, địa thế rất hiểm trở, chênh vênh. Pha Ðin tiếng địa phương nghĩa là Trời Ðất. Theo truyền thuyết địa phương, đây là nơi tiếp giáp giữa trời và đất.
Xưa kia, vì có sự tranh chấp ranh giới giữa hai tỉnh Sơn La và Lai Châu (cũ), người ta đã giải quyết bằng một cuộc đua ngựa. Từ hai phía đèo, cùng một lúc ngựa hai bên phi hướng về nhau. Nơi gặp gỡ sẽ là ranh giới. Ngựa Lai Châu phi nhanh hơn, nên phần đèo thuộc về Lai Châu (nay thuộc tỉnh Điện Biên) dài hơn phần đèo của Sơn La.
Hồ Pá Khoang
Hồ Pá Khoang thuộc địa phận xã Mường Phăng, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên, cách thành phố Điện Biên Phủ gần 20km. Trong khu vực lòng hồ có các bản dân tộc Thái, Khơ Mú là những dân tộc còn giữ được những phong tục tập quán, nét đặc sắc của các dân tộc vùng Tây Bắc ...

Hang Thẩm Báng
Thuộc huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên. Hang Thẩm Báng đã được xếp hạng di tích và là một điểm tham quan của du khách. Đây là hang đá có vẻ đẹp tự nhiên và còn nguyên vẹn. Lòng hang rộng và sâu, cao gần 100m, có nhiều ngách.
Giữa hang có phiến đá to bằng phẳng như mặt bàn. Nhìn lên các vách, trần đá, nhiều măng đá, nhũ đá tạo thành những hình thù những con rồng, con phượng, sư tử, voi quì hoặc những đoá phong lan tuyệt đẹp.
Hang Thẩm Báng không chỉ là một hang đá đẹp mà tại đây, nhân dân địa phương đã phát hiện một số loại rìu, chày nghiền thức ăn bằng đá, một số mẩu xương động vật hoá thạch.Không chỉ là một cứ điểm lịch sử mà còn là nơi có cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ và xinh đẹp. Điện Biên Phủ là điểm đến lí tưởng cho những bạn muốn tìm hiểu về lịch sử dân tộc cũng như thăm thú cảnh đẹp của núi rừng Tây Bắc.
http://v18.nonxt7.c.bigcache.googleapis.com/static.panoramio.com/photos/original/23840657.jpg?redirect_counter=1Cầu Mường Thanh
http://www.csphoto.vn/images/anhtintuc/tuongdai_tohop.jpgChiều: chúng tôi tới Điện Biên, nhận phòng khách sạn xong là rủ nhau đi thăm và mua săm đồ lưu niệm tại chợ trung tâm Điện Biên Phủ. Sau đó, chúng tôi khởi hành đi tham quan bảo tàng Điện Biên, Viếng Nghĩa trang liệt sỹ đồi A1, thăm Đồi A1, thăm Hầm sở chỉ huy quân đội Pháp - Tướng De Castries, Cầu Mường Thanh, Sông Nậm Rốm,v.v...

Điện Biên Phủ cách Hà Nội 474 km theo quốc lộ 279 và 6. Thành phố Điện Biên Phủ phía đông nam giáp huyện Điện Biên Đông, các phía còn lại giáp huyện Điện Biên. Tên gọi Điện Biên do vua Thiệu Trị đặt năm 1841 từ châu Ninh Biên; Điện nghĩa là vững chãi, Biên nghĩa là vùng biên giới, biên ải. Phủ Điện Biên (tức Điện Biên phủ) thời Thiệu Trị gồm 3 châu: Ninh Biên (do phủ kiêm lý, tức là tri phủ kiêm quản lý châu), Tuần Giáo và Lai Châu.
Thành phố Điện Biên được biết đến với trận Điện Biên Phủ năm 1954, giữa quân đội Việt Minh (do tướng Võ Nguyên Giáp chỉ huy) và quân đội Pháp (do tướng Christian de Castries chỉ huy). Cuộc chiến mang ý nghĩa rất lớn trong việc kết thúc vai trò của người Pháp ở bán đảo Đông Dương, và đưa tới việc kí kết hiệp định chia Việt Nam ra thành 2 miền: Bắc và Nam. Trận Điện Biên Phủ được nhắc đến như một chiến thắng vĩ đại nhất của các nước Đông Nam Á chống lại một cường quốc phương Tây. Trong trận này, Lực lượng Việt Minh đã di chuyển pháo binh của họ lên những quả đồi xung quanh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ và tiến công vào sườn của quân đội Pháp. Bằng cách huy động sức người một cách tối đa và với lực lượng hậu cần đông đảo của mình, Việt Minh đã làm nên một trong những chiến thắng quan trọng nhất trong lịch sử chiến tranh của Việt Nam.
Khí hậu tỉnh Điện Biên là khí hậu nhiệt đới núi cao, chia làm 2 mùa, mùa mưa và mùa khô. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 21ºC – 23ºC. Nhờ khí hậu núi cao, thiên nhiên hoang sơ nên Điện Biên đang được đầu tư để trở thành điểm du lịch nhưng nói thật là thái độ phục vụ & ăn uống quá tệ, e rằng khó có du khách nào muốn trở lại lần nữa.
Quần thể di tích lịch sử Điện Biên Phủ được chính thức xếp hạng di tích lịch sử quốc gia ngày 28 tháng 4 năm 1962. Tượng đài chiến thắng Điện Biên Phủ được xây dựng nhân dịp kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (2004). Hiện nay chạy dọc thung lũng Mường Thanh, nơi diễn ra cuộc đọ sức lịch sử năm xưa là đại lộ 279, con phố chính và lớn nhất thành phố Điện Biên Phủ.
Về đường bộ, Điện Biên Phủ nối với thị xã Mường Lay bằng đường 12, cách nhau 90 km. Điện Biên Phủ cách Hà Nội 474 theo đường 279 đến Tuần Giáo chuyển sang đường 6.Về đường hàng không, Điện Biên Phủ có sân bay Điện Biên Phủ nối với Hà Nội.
Sáng ngày thứ 3, chúng tôi đã khởi hành đi tham quan cửa khẩu Tây Trang - cửa khẩu quốc tế giữa Việt Nam và Lào. Trở lại TP Điện Biên, dùng bữa trưa tại nhà hàng.
Sáng ngày thứ 3, dùng điểm tâm tại khách sạn. Chúng tôi khởi hành đi tham quan cửa khẩu Tây Trang - cửa khẩu quốc tế giữa Việt Nam và Lào. Trở lại TP Điện Biên, dùng bữa trưa tại nhà hàng.
http://quehuongonline.vn/Uploads/LibraryImages/0_DB9.jpgcửa khẩu Tây Trang http://nguoidaibieu.vn/baocu/Portals/0/Phong-su-anh/Anh-My/04.jpgcửa khẩu Ma Lu Thàng
http://du-lich.chudu24.com/f/d/090221/a-black-hmong-woman.jpg?c=1&w=450
Sáng ngày thứ 4, dùng điểm tâm tại khách sạn rồi chúng tôi đi Tuyên Quang, qua Than Uyên, thăm Mù Cang Chải, ăn trưa tại thị trấn Tú Lệ.
http://www.dulichsapa.tv/images/image/tong_hop/mucangchai.jpghttp://khainguyen.vnweblogs.com/gallery/3075/previews-med/MCC9.jpg
http://a8.vietbao.vn/images/vn888/hot/201007/1281171733-1-ruongbtmcchai.jpegMù Cang Chải




Thời tiết mát giống như Sa Pa
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgM-ytaBl_YfleRsja4S1TXCWAVkarYsVMk8mSQQFXwCNsf9D_r_b8oKeY_iEmUGEhSSVIRRCugMTnKXQZMX6ejaPPZ5HBRQVx7vrCKPYGUgnF137ZOYXsQXpG5dOaY20kFSiyvHNA-u_hd/s1600/suoi-giang0.jpg
suối Giàng
Chiều: Tiếp tục hành trình qua thị xã Nghĩa Lộ thăm suối Giàng, cây Chè 500 năm tuổi, tiếp tục hành trình qua thành phố Yên Bái về Tuyên Quang, chúng tôi nhận phòng khách sạn.Qua 400km, chúng tôi mệt lã người nên dùng bữa tối tại nhà hàng xong là nhào lên tắm và ngủ 1 chút. Thức dậy, chúng tôi dạo chơi tham quan thành Phố Tuyên Quang. Nghỉ đêm tại khách sạn.
http://files.myopera.com/namthaiduc/albums/816564/Nha%20tho%20o%20Nghia%20Lo_mini.JPG
Một nhà thờ ở thị xã Nghĩa Lộ
http://vea.gov.vn/VN/hientrangmoitruong/mtxsd/PublishingImages/02122010%20(1).jpg
cây Chè 500 năm tuổihttp://www.thegioivemaybay.com.vn/uploads/news/1293487307_san%20bay%20dien%20bien%20phu.jpgSân bay Điện Biên ngày nay


Những người dân hiền lành, chất phác cùng những vũ khí thô sơ xung trận

Mô hình bộ đội ta hò kéo pháo, những chiếc xe thồ chở lương thực lên Điện Biên

Lá cờ quyến chiến, quyết thắng tung bay trên nóc hầm tướng De Castries ngày 07/5

Chiếc xe tăng trên đồi A1 được một tiểu đội lính Mỹ lắp ráp tại chiến trận cứ 3 ngày xong một chiếc

Đỉnh đồi A1
http://farm4.static.flickr.com/3107/2812877191_3df45f1567.jpgHầm chỉ huy tướng De Castries

http://honghanhle.vnweblogs.com/gallery/16907/285133-IMG_4267.JPG
- Trước đền thờ các anh hùng liệt sĩ


Từ trên tượng đài chiến thắng nhìn xuống Thành phố Điện Biên

Tượng đài hò kéo pháo Trên đường đi vào thăm trung tâm chỉ huy
(chỉ đúc bằng xi măng vừa đỡ tốn và... kém). của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp


Tram gác (Đường vào bộ chỉ huy) Lán ngủ Trạm giao liên


Giường ngủ của Đại Tướng Đường hầm, trung tâm chỉ huy

Nhà tác chiến



Ảnh Pham Ba cung cấpGái Thái tắm tiênhttp://lh4.ggpht.com/_Lhpr9xyq6ZY/TAYhCbwoAaI/AAAAAAAADL0/f32yBrTGN0M/tamtien6%20dulichkhampha.jpghttp://lh6.ggpht.com/_Lhpr9xyq6ZY/TAYhBWpOWuI/AAAAAAAADLs/5YCz9zzP8nQ/tamtien%204%20dulichkhampha.jpg

Đồng Văn
Sáng ngày thứ 5, dùng điểm tâm tại khách sạn, chúng tôi trả phòng, khởi hành đi khu di tích lịch sử Tân Trào (ATK) - thủ đô lâm thời của khu giải phóng, nơi mà Đảng Cộng Sản Đông Dương tiến hành hội nghị toàn quốc (13/08/1945) đến Tân Trào, chúng tôi vào thăm quan Bảo tàng Tân Trào và nghe giới thiệu về khu di tích lịch sử Tân Trào (ATK) thăm quan Đình Tân Trào, Đình Hồng Thái, Cây Đa Tân Trào, lán Là Nừa, ăn trưa tại thị trấn Hàm Yên.
http://www.dulichtrongoi.com/userfiles/image/TUYEN%20QUANG(1).jpgĐình Tân Trào
http://d3.violet.vn/uploads/previews/blog/2676/dscf8085_500_01.jpgĐình Hồng Thái
http://dulichquangnam.com.vn/uploads/11005680-Cay-da-Tan-Trao-1.jpgCây Đa Tân Trào
http://d2.violet.vn/uploads/thumbnails/161/thumbnails2/0.Lan_La_Nua_-_noi_o_va_lam_viec_cua_Bac_thoi_gian_o_Tan_Trao.jpg.jpglán Là Nừa - nơi ở và làm việc của Bác thời gian ở Tân Trào
Chiều: Tiếp tục hành trình đi Mèo Vạc, chúng tôi khởi hành theo đường 4C đi Mèo Vạc - “Cổng Trời”, với độ cao khoảng 1.000m so với mặt biển, địa hình chập chùng núi rất khó khăn trong việc đi lại nhưng với phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ đã tạo cho huyện vùng cao biên giới này một sức hút kỳ lạ đối với du khách. Đến Mèo Vạc, chúng tôi thăm chợ Mèo Vạc.
http://www.dulichsapa.tv/images/image/tong_hop/meo_vac.jpg“Cổng Trời”Mã Pi Lèng
http://www.luavietours.com/Data/Tours/nha%20vua%20meo.jpgnhà vua Mèo
http://www.vatgia.com/pictures_fullsize/god1262145921.jpgMèo Vạc Sau đó, chúng tôi tiếp tục khởi hành đi Đồng Văn. Từ thị xã Hà Giang, qua những con đèo cao ngất tới Quản Bạ, rồi Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc. Phong cảnh vừa hùng vĩ vừa trữ tình dần hiện ra ngoài cửa xe như trong một bộ phim du lịch khám phá. Lãng mạn hơn cả là chặng đường Tuyên Quang đến thị xã Hà Giang cặp theo dòng sông Lô, dòng sông đã đi vào nhạc phẩm nổi tiếng của Văn Cao, và những dãy núi đá vôi trùng điệp. Đầu xuân, những vườn mận, vườn đào hoa nở trắng xoá hoặc hồng rực. Đầu hè, những triền ngô(bắp) xanh nõn bám trên các sườn núi đá. Trễ hơn chút nữa, mùa lúa duy nhất trong năm bắt đầu, từ trên những sườn núi cao nhìn xuống thung sâu, thấp thoáng các khu ruộng bậc thang loáng nước, ở đó, người H'Mông đang hối hả cày cấy... Trong không gian như mơ như thực ấy, không khi nào thiếu những vạt cải hoa vàng rực rỡ. Và thật thú vị, đó chính là món ngon đầu tiên được ăn khi lần đầu tiên đến với vùng cao nguyên đá Hà Giang. Cải ngồng Hà Giang rất lạ, cọng mũm mĩm như đọt măng tây, điểm những chấm hoa vàng tươi rói cả khi còn tươi lẫn khi đã luộc chín. Ngọt, chắc, bùi là những cảm giác rõ mồn một khi thưởng thức món ngồng cải luộc rất bình dân nhưng cực kỳ khoái khẩu với người miền xuôi vốn thèm rau sạch khi đến Hà Giang! Thắng cố và rượu ngô là 2 món phổ biến nhất ở vùng này.
Ấn tượng nhất là cung đường lên cao nguyên Đồng Văn, một bên vách núi dựng đứng còn bên kia là vực sâu và con lộ phía trước tưởng chừng hút thẳng lên trời cao. Một điểm đến hấp dẫn trong hành trình Đông - Tây Bắc mà nhiều du khách mong đợi được đặt chân đến chính là điểm cực bắc Việt Nam trên đỉnh Lũng Cú. Nơi đây từng được ví là “nóc nhà Việt Nam”, nơi mà người dân đất Việt nào cũng đều mơ ước một lần thưởng lãm.
Sau quãng đường dài với những thử thách ấy, chúng tôi được đền bù xứng đáng vì phong cảnh hoang sơ, hùng vỹ trải dọc các danh thắng cổng trời Quản Bạ, núi Đôi, dinh thự vua Mèo, đèo Mã Pí Lèng, những làng mạc của người dân tộc H’Mông trắng, Lô Lô, Dao đỏ... cứ vụt qua ô cửa sổ xe trên từng cây số xe chạy qua.

Khí hậu quanh năm mát mẻ của núi cao, nhất là vùng "lõi của cao nguyên đá" là hai huyện Đồng Văn, Mèo Vạc khiến nơi đây trồng được những loại rau, đậu rất ngon và lạ. Trái "dưa mèo" mũm mĩm như chú chuột bạch cỡ lớn, đậu Hà Lan xanh mượt, giòn và ngọt lạ lùng. Dẫu không nổi tiếng như ở Định Hoá (Thái Nguyên) hay Mường Thanh (Điện Biên), lúa gạo trồng trong những thung lũng lọt giữa ngút ngàn núi đá ở Đồng Văn, Quản Bạ vẫn làm nên những nồi cơm ngon nhất. Cơm gạo mới ở Đồng Văn, Mèo Vạc luôn nấu bằng nồi nhôm đúc và vùi trong than củi nên thơm dẻo khác hẳn cơm nấu trong nồi điện dưới xuôi.
http://travellinksvietnam.com/upload/image/service/201014155014.gif
Thường thì muốn đi hết một vòng bốn huyện miền núi cao, du khách phải nghỉ lại Hà Giang sau khi vượt qua 320km đường xe từ Hà Nội. Sáng hôm sau, lại đi trên những con đường chênh vênh trên sườn núi cao ngất. Đi theo hành trình ấy, ăn trưa tại thị trấn Yên Minh là hợp lý. Chặng về cũng vậy, khởi hành từ Đồng Văn hoặc Mèo Vạc vào buổi sáng thì tầm trưa cũng lại đi qua "cửa ải" Yên Minh. Thị trấn cửa ngõ của hai huyện Đồng Văn, Mèo Vạc có hai quán ăn nhỏ nằm bên chợ huyện Yên Minh đã sẵn sàng đón khách. Món ăn ở đây khá "độc". Ngồng cải luộc vừa ngọt vừa bùi, bó ngô non nhồi thịt thơm phức, tôm suối xào lá chanh giòn tan. Đặc biệt vào mùa lạnh, món lạp xường và thịt xông khói trở thành đặc sản. Quy trình làm lạp xường nhiều người đã biết, thịt băm nhỏ trộn gia vị nhồi vào ruột heo non và nướng trên than hồng cho chín rồi trên trên gác bếp. Thịt xông khói được làm theo cách khác. Thịt mông, vai, ba chỉ của con lợn cắp nách xẻ thành miếng dài đem ướp muối chừng một tuần rồi đem treo lên gác bếp. Đem làm món, vị mặn của muối quyện với chất béo của mỡ khiến người mới ăn không biết đằng nào mà lần!
Lõi của vùng cao cực Bắc là thị trấn Đồng Văn. Thủ phủ của cao nguyên đá khiến ta nao lòng bởi vẻ đẹp u hoài của khu phố cổ bên ba dãy chợ mà người Pháp khi xâm chiếm Đồng Văn đã xây từ những năm 30 của thế kỷ trước. Vào các buổi sáng chủ nhật, dưới những mái ngói thâm nâu ấy là cả một thế giới kỳ lạ của ẩm thực! Rượu ngô người Mông 8.000 đồng/ lít, uống say tràn cung mây. Một dãy nhà ngang của chợ được dành riêng cho hàng ăn uống với rất nhiều quán phở thịt lợn. Trước dãy nhà này, xôi bảy màu của người Tày xếp thành dãy. Xế vào phía uỷ ban huyện Đồng Văn là những phản thịt lợn và kế bên là các lò thắng cố thơm phức vị thảo quả lẫn với mùi khói gỗ nghiến hệt mùi gỗ pơ mu.
Nếu đã một lần đến cao nguyên đá, bạn hãy cố tìm để được ăn món "gà mèo", một giống gà đặc biệt chỉ có ở vùng cao núi đá này và xứng đáng được liệt vào hàng đặc sản. Con gà mèo không khác gì gà thường nhưng chân đen, mặt đen, mào đen, da đen, thịt đen và xương cũng đen nốt. Luộc, rang và nấu canh gừng là cách người vùng cao nguyên đá "ứng xử" với gà mèo. Thịt gà mèo rất lạ: không béo, không nát, chắc mà không dai, nạc mà không xác. Tóm lại, nếu một lần đã được xơi món thịt gà đen như bánh gai ấy, thì một ngày đẹp trời nào đó, ta sẽ lại khao khát được leo cao nguyên đá lần thứ hai, rồi lần thứ ba!
Tới đây chúng tôi không chỉ được thoả sức ngắm nhìn trời đất mà còn được tham quan một điểm du lịch lý thú đó là dinh họ Vương thuộc địa phận xã Sà Phìn - đây là một công trình kiến trúc đẹp hiếm có và rất độc đáo của vùng cao nguyên Núi Đá.
http://phapluattp.vcmedia.vn/Images/Uploaded/Share/2009/12/13/dongvan_1.jpgĐồng Văn ( Hà Giang)
Về địa thế, Hà Giang có 8 huyện, một thị xã thì 2 huyện phía Tây bắc là vùng cao núi đất và 4 huyện phía Đông bắc là vùng cao núi đá. Năm 2010 tổ chức unesco - Liên hiệp quốc đã công nhận vùng cao nguyên núi đá này là công viên địa chất Quốc gia và Quốc tế. Đây là công viên đá thứ 69 trong các công viên địa chất toàn cầu và thứ hai trong vùng Đông Nam Á.

Khu vực phía Đông bắc Hà Giang gồm 4 huyện: Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc được gọi một tên chung là cao nguyên Đồng Văn. Ở đây, đá chiếm đến 3/4 đất đai; người, vật, cây cối, sông suối bám vào đá để tồn tại, sinh sôi phát triển. Toàn bộ cao nguyên là di sản đa dạng địa chất, đa dạng cổ sinh địa tầng có ý nghĩa quốc gia và quốc tế thuộc các lĩnh vực lịch sử tiến hoá của vỏ trái đất.

Phố Phó Bảng - thị trấn huyện Yên Minh, Hà Giang.
Cột cờ Lũng Cú trên đỉnh núi Rồng.
Thị xã Hà Giang điểm khởi đầu của xứ sở cao nguyên đá. Con sông Lô hiền hoà phân đôi thị xã, phía hữu ngạn sông, phố xá, công sở nằm ven theo các chân dãy núi đá sừng sững; độ cao so với mặt biển của thị xã chỉ khoảng 400 mét, nhưng nhờ núi đá mà mùa hè khí hậu khá mát mẻ, dễ chịu không khác với Đà Lạt, Sapa bao nhiêu. Cao nguyên Núi Đá Đồng Văn là 1 trong những trọng điểm du lịch của miền Đông Bắc VN hôm nay.Rời khỏi thị xã là tiếp cận ngay với thế giới huyền bí của đá và mây trời. Con đường độc đạo từ thị xã qua các huyện Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc khi len lỏi giữa những rừng đá lởm chởm, lúc men theo những vách đá dựng đứng, một bên là vực sâu thăm thẳm; có đoạn lại vượt qua những ngọn đèo cao vút, quanh năm mây phủ dày đặc, dân địa phương gọi đó là cổng trời. Thế giới đá ấy đã hình thành mấy trăm triệu năm trước, trải qua quá trình phong hoá thầm lặng và dữ dội đã tạo thành những khu vườn đá với nhiều hình thù kỳ dị, đặc biệt, hấp dẫn. Đó đây, trong các thung lũng hẹp, lớp lớp các khối đá to nhỏ xếp gối lên nhau giống như những đàn gấu đen bóng, tựa vào nhau đang nằm nghỉ ngơi. Các dãy núi có hình dạng kim tự tháp nối tiếp nhau chạy dài từ nam lên bắc, đỉnh nhọn cao ngất ngưỡng, sườn dốc lởm chởm đá tai mèo. Khắp vùng Đồng Văn, Mèo Vạc lại có những chóp đá, tháp đá có hình dạng ngộ nghĩnh như những nụ hoa, bông hoa hoặc kiểu rồng cuộn, hổ ngồi… sự cấu tạo đa dạng này đã làm cho cảnh quan toàn miền cao nguyên không buồn tẻ, hiu quạnh như các khu vực chỉ thuần đá vôi cổ. Vùng này trước kia trồng nha phiến và buôn ma túy nổi tiếng; nay là vùng định cư của các dân tộc Mông, Lô Lô, Dao, Phù Lá, Pu Péo v.v… đã trồng rất nhiều đào, mận tam hoa(nectarine), v.v... Ai đến Đồng Văn cũng háo hức chinh phục độ cao của đỉnh núi RồngNơi có cột cờ cao 17m treo quốc Kỳ Việt Nam đánh dấu vùng lãnh thổ thiêng liêng của tổ quốc.Sau đó chúng tôi kéo đến cổng trời Quản Bạ, dừng chân ngắm cảnh Cổng Trời Quản Bạ, ngắm Núi Đôi rồi mới khởi hành đi Lũng Cú.Bên cạnh những vách đá màu xám trắng lại xen kẽ những dãy đồi đá phiến thoai thoải bao phủ một lớp cỏ mượt mà màu xanh lá mạ, khi nắng chiều rải xuống, màn cỏ ánh lên một màu vàng vàng, tim tím cực kỳ huyền ảo. Sông suối chảy qua cao nguyên cũng khá kỳ dị, bí ẩn. Những dòng nước trắng xoá, trong veo đang réo ầm ầm bên chân núi bỗng nhiên mất hút trong lòng núi đá rồi lại hiện ra dưới các hẻm vực vừa dài vừa rộng như một lát dao sắc ngọt xẻ đôi khối núi đồ sộ. Sự đa dạng, phong phú về sinh học của cao nguyên cũng hết sức độc đáo. Xen lẫn giữa những khối núi đá hùng vĩ là các khoảnh rừng nguyên sinh còn tương đối nguyên vẹn với nhiều loại gỗ, lâm sản, dược liệu quý hiếm như: nghiến, thông đá, tùng bách, dẻ, thảo quả, hương nhu, đỗ trọng, nấm hương, các loài phong lan v.v… Cao nguyên đá cũng là môi trường thân thiện của trên 50 loài thú, bò sát, chim muông như: sơn dương, gấu, vọc, khỉ, hoẵng, heo rừng, cầy hương, kỳ đà, trăn, gà rừng, trĩ, đại bàng, hoạ mi v.v… Hai loại cây được xem là những cây đặc trưng của vùng cao nguyên đá, gồm đào phai và mận tam hoa, sẽ được trồng dọc tuyến đường vào các điểm du lịch, điểm dừng chân, danh lam thắng cảnh, làng văn hóa du lịch cộng đồng, xung quanh trường học, trụ sở cơ quan, quanh các hồ chứa nước sinh hoạt.
http://dulichnetviet.net/Images/Articles/images/0-aa-a1aahoadaokhoessac.jpg

Cùng với những giá trị đặc hữu về địa chất, địa mạo, sinh học, cảnh quan… cao nguyên đá Đồng Văn còn ẩn chứa nhiều giá trị văn hoá truyền thống đẹp đẽ của 22 dân tộc anh em cư trú nơi đây. Từ bao đời nay bà con các dân tộc Mông, Lô Lô, Dao, Phù Lá, Pu Péo v.v… đã sáng tạo ra cách sản xuất, cách sống, ăn, ở… riêng biệt để thích nghi với môi trường thiên nhiên.

Những khoảnh đất trong các thung lũng giữa trùng vây đá núi được kết cấu thành những mảnh ruộng bậc thang; tận dụng các hốc đá tai mèo, bà con đã gùi đất lên bỏ vào từng hốc để gieo ngô, đậu. Vào mùa hè, mùa mưa ở cao nguyên, lúa, ngô, đậu, lanh, tam thất, hương nhu… trên nương rẫy, hốc đá vách núi tốt tươi xanh mướt hoà lẫn trong hương thơm ngào ngạt của hoa dại và cỏ mật. Nhà cửa, bờ rào vườn tược, chuồng gia súc đều xây dựng bằng đá. Nghệ thuật kiến trúc đá đã đạt mức độ tinh xảo.


Tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc dân gian dân tộc ấy là dinh thự họ Vương ở Sà phìn, cách thị trấn Đồng Văn khoảng 10 cây số. Đây là dinh thự của Thổ ty Vương ChínhĐức. Đầu thế kỷ thứ 20, khi chấp chính ngôi vị Thổ ty - một chức quan cai trị Đồng Văn, Vương Chính Đức triệu thợ giỏi các tộc người Mông, Lô Lô, Phù Lá… các địa phương trong vùng về xây dựng dinh thự. Toàn bộ 10 ngôi nhà ngang, dọc rộng hơn 1200m2, các dãy nhà phụ, tường rào bao quanh đều xây bằng đá. Từng chi tiết xây cất, đẽo gọt đá, gỗ ván đã thể hiện sự khéo léo, tinh tế, đặc sắc của tay nghề những người thợ dân gian bản địa.


Thời Pháp thuộc, Vương Chính Đức đã giành được quyền tự trị đất Đồng Văn. Người kế nhiệm Vương Chí Thành đã ngăn giữ không cho người Nhật xâm nhập vào Đông Văn. Cách mạng tháng 8 thành công, Vương Chí Thành giao đất Đồng Văn cho chính quyền cách mạng quản lý. Bác Hồ kết nghĩa huynh đệ với Vương Chí Thành, những năm 60 thế kỷ trước ông được Bác Hồ mời về sống ở Hà Nội để có điều kiện chăm sóc sức khoẻ tuổi già.


Điểm cực Bắc của Tổ quốc và cũng là trung tâm của cao nguyên đá là thị trấn Đồng Văn. Nơi đây là xứ sở độc đáo về khí hậu và địa hình “Đất rộng mênh mông nhưng không được bao nhiêu thước bằng phẳng - Trời quanh năm không được vài ngày nắng”. Khu phố cổ Đồng Văn được hình thành từ thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 19. Tuy thời điểm xây dựng không đồng nhất nhưng cung cách kiến trúc đều có nét khá tương đồng: nhà hai tầng, tường đá xanh, khung nhà gỗ không có mộng thắt, không chạm trổ cầu kỳ, mái lợp ngói âm dương… Hiện nay còn lưu giữ 20 ngôi nhà có niên đại trên 100 năm. Dinh thự họ Vương và khu phố cổ Đồng Văn đã được nhà nước công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia. Phố thị Đồng Văn còn là nơi tiêu biểu của những nét văn hoá truyền thống của các dân tộc ở cao nguyên.


Những ngày hội dân gian, các ngày phiên chợ hàng tháng, người người từ các bản làng gần xa tụ hội về đông vui tấp nập, màu sắc trang phục sặc sỡ, đẹp mắt; cả không gian tràn ngập tiếng cười nói, lời ca ngọt ngào, âm thanh đàn, khèn, sáo du dương, quyến rũ. Người lớn tuổi, thanh niên không phân biệt nam nữ gặp nhau trong các hàng quán bình dân, tuỳ lứa tuổi và sức khoẻ, họ mời nhau chén rượu ngô thơm nồng, bát thắng cố béo ngậy, bát cháo ẩu tẩu vừa có vị đăng đắng lại ngòn ngọt… những món ẩm thực đặc sản, ai được thưởng thức một lần là nhớ mãi….

http://www.vietnamplus.vn/avatar.aspx?ID=84558&at=0&ts=300&lm=634365545475500000

Từ thị trấn Đồng Văn ngược thẳng về phía Bắc khoảng 20 cây số là xã Lủng Cú, mỏm địa đầu của đất nước, nhìn lên bản đồ Việt Nam, cái chóp nhô cao như một mũi mác, chính là đất Lủng Cú. Những ngọn núi xếp lớp đơn nguyên nơi đây là điển hình của loại đá trầm tích, loại đá cổ nhất của trái đất. Lũng Cú ở độ cao gần 1800 mét. Đứng giữa xứ sở này, ta có cảm giác như đang sống bồng bềnh giữa mây ngàn gió núi; mây trắng bời bời phủ che trên đầu, trôi lững lờ dưới chân, bao quanh lẩn quất bên mình.
http://rmcst.gov.vn/Upload/image/nocnha2to.jpg

Tại thôn Séo Lũng, cách trung tâm xã gần 5 cây số có ngọn núi Rồng, cột cờ Tổ quốc dựng trên đỉnh núi, sát cột mốc số 17 biên giới Việt - Trung. Tên núi Rồng đã có từ lâu đời, do đồng bào địa phương đặt. Một sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa tên núi nơi địa đầu Tổ quốc với dòng dõi con Rồng cháu Tiên của dân tộc ta. Lá cờ đỏ sao vàng với diện tích 54 mét vuông - tượng trưng cho 54 dân tộc anh em ngày ngày kiêu hãnh tung bay giữa trời xanh, khẳng định chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc ta. Bao thế hệ qua, bất chấp mọi khó khăn nguy hiểm, mọi áp lực, những người dân thuộc hai dân tộc kiên cường Mông, Lô Lô ở Lũng Cú đã không tiếc mồ hôi, xương máu để bảo vệ quốc kỳ, bảo vệ lãnh thổ thiêng liêng. Lớp lớp người dân Lũng Cú xứng đáng với niềm tin, sự kính phục của nhân dân cả nước.

http://cinnamonhotel.files.wordpress.com/2010/02/vung-nui-da-ha-giang3.gif
Trên đoạn đường phía Tây từ thị trấn Đồng Văn qua Mèo Vạc là ngọn đèo Mã pí lèng, một cảnh quan địa mạo tuyệt đẹp. Đứng trên đỉnh đèo ta có cảm tưởng chỉ vài sải tay là có thể với được tới trời. Dưới chân đèo, bên hữu, ở độ sâu hơn 1000 mét là dòng sông óng ánh bạc Nho quế, con sông lớn nhất của cao nguyên bắt nguồn từ Lũng Cú, luồn lách, ẩn hiện qua nhiều dãy núi đá để đưa nước về hợp lưu với sông Gâm, chi nhánh lớn của Lô giang.

Phía tả đèo, một thung lũng hẹp hun hút dưới sâu với đôi ba chục nóc nhà nhỏ tựa lưng vào dãy núi đá vời vợi, một ngôi làng quá heo hút nhưng lại được khá nhiều người không chỉ Hà Giang biết đến, bởi hàng năm ở đây diễn ra một phiên chợ đặc biệt: chợ tình khau vai, mỗi năm chỉ họp một lần vào cuối mùa xuân. Gọi chợ tình là theo nghĩa thông tục, chứ ở đây, người về chợ là để giao lưu tình cảm, tình yêu đôi lứa, không hề có chuyện mua bán hiện đại. Chợ tình khau vai hay gọi đúng hơn ngày hội tình yêu - tình bạn là một trong những nét văn hoá truyền thống đáng trân trọng của các dân tộc Đồng Văn.

http://cuocsongviet.com.vn/upload/image/Thumbs_bv/20511145214.jpg

Cho đến nay, cảnh vật, con người trên cao nguyên đá Đồng Văn - Hà Giang vẫn giữ được khá đậm đà những nét hoang sơ, kỳ vĩ, tinh khiết có sức lôi cuốn đối với du khách trong và ngoài nước.

http://a8.vietbao.vn/images/vn888/anhvan/1/1/d/2/l/50.jpg
Bên cạnh những vách đá màu xám trắng lại xen kẽ những dãy đồi đá phiến thoai thoải bao phủ một lớp cỏ mượt mà màu xanh lá mạ, khi nắng chiều rải xuống, màn cỏ ánh lên một màu vàng vàng, tim tím cực kỳ huyền ảo. Sông suối chảy qua cao nguyên cũng khá kỳ dị, bí ẩn. Những dòng nước trắng xoá, trong veo đang réo ầm ầm bên chân núi bỗng nhiên mất hút trong lòng núi đá rồi lại hiện ra dưới các hẻm vực vừa dài vừa rộng như một lát dao sắc ngọt xẻ đôi khối núi đồ sộ. Sự đa dạng, phong phú về sinh học của cao nguyên cũng hết sức độc đáo. Xen lẫn giữa những khối núi đá hùng vĩ là các khoảnh rừng nguyên sinh còn tương đối nguyên vẹn với nhiều loại gỗ, lâm sản, dược liệu quý hiếm như: nghiến, thông đá, tùng bách, dẻ, thảo quả, hương nhu, đỗ trọng, nấm hương, các loài phong lan v.v… Cao nguyên đá cũng là môi trường thân thiện của trên 50 loài thú, bò sát, chim muông như: sơn dương, gấu, vọc, khỉ, hoẵng, heo rừng, cầy hương, kỳ đà, trăn, gà rừng, trĩ, đại bàng, hoạ mi v.v…
mạn tam hoa
Trên Bản Phố, Na Hối, Lầu Thí Ngài của huyện Bắc Hà, mận được trồng xen lẫn với ngô. Nhìn từ xa cả vạt đồi xanh mướt.
mạn
Là cây quen thuộc với từng gia đình, đôii khi mận được trồng ngay cạnh nhà.
mạn
Thường đầu tháng 5 âm lịch, mận chín và bắt đầu mùa thu hái. Nhưng năm nay, mận tam hoa Bắc Hà chín muộn.
Nhiều cây cho quả rất to và mọng, nhưng cũng đã xuất hiện cây có biểu hiện thoái hóa, quả nhỏ và vị chua.
Chị Giàng Thị Mỷ ở Bản Phố hái mận mang ra chợ bán. Tự mang ra chợ sẽ vất vả hơn nhưng được giá hơn bán đổ đồng tại vườn.
Bán tại vườn, mỗi kg mận được 5.000- 7.000 đồng, mận chọn thì được 10.000 đồng. Đây là điều đáng mừng, vì vụ mận năm trước giá chỉ 2.000-3.000 đồng/kg.
Mận mới được hái vẫn còn nguyên lá và lớp phấn phủ bên ngoài. Giá mận ở chợ Bắc Hà dao động 15.000-20.000 đồng/kg.
Ngoài ngô bắp, hai loại cây được xem là những cây đặc trưng của vùng cao nguyên đá, gồm đào phai và mận tam hoa, sẽ được trồng dọc tuyến đường vào các điểm du lịch, điểm dừng chân, danh lam thắng cảnh, làng văn hóa du lịch cộng đồng, xung quanh trường học, trụ sở cơ quan, quanh các hồ chứa nước sinh hoạt.
http://dulichnetviet.net/Images/Articles/images/0-aa-a1aahoadaokhoessac.jpg

Cùng với những giá trị đặc hữu về địa chất, địa mạo, sinh học, cảnh quan… cao nguyên đá Đồng Văn còn ẩn chứa nhiều giá trị văn hoá truyền thống đẹp đẽ của 22 dân tộc anh em cư trú nơi đây. Từ bao đời nay bà con các dân tộc Mông, Lô Lô, Dao, Phù Lá, Pu Péo v.v… đã sáng tạo ra cách sản xuất, cách sống, ăn, ở… riêng biệt để thích nghi với môi trường thiên nhiên.

51.jpg
Những khoảnh đất trong các thung lũng giữa trùng vây đá núi được kết cấu thành những mảnh ruộng bậc thang; tận dụng các hốc đá tai mèo, bà con đã gùi đất lên bỏ vào từng hốc để gieo ngô, đậu. Vào mùa hè, mùa mưa ở cao nguyên, lúa, ngô, đậu, lanh, tam thất, hương nhu… trên nương rẫy, hốc đá vách núi tốt tươi xanh mướt hoà lẫn trong hương thơm ngào ngạt của hoa dại và cỏ mật. Nhà cửa, bờ rào vườn tược, chuồng gia súc đều xây dựng bằng đá. Nghệ thuật kiến trúc đá đã đạt mức độ tinh xảo.
52.jpg

52.jpg

54.jpg
http://vigmr.vn/vi/files.php?file=temp/a277706422cb84e16c51cadf38294bfa_383522568.jpg
Tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc dân gian dân tộc ấy là dinh thự họ Vương ở Sà phìn, cách thị trấn Đồng Văn khoảng 10 cây số. Đây là dinh thự của Thổ ty Vương ChínhĐức. Đầu thế kỷ thứ 20, khi chấp chính ngôi vị Thổ ty - một chức quan cai trị Đồng Văn, Vương Chính Đức triệu thợ giỏi các tộc người Mông, Lô Lô, Phù Lá… các địa phương trong vùng về xây dựng dinh thự. Toàn bộ 10 ngôi nhà ngang, dọc rộng hơn 1200m2, các dãy nhà phụ, tường rào bao quanh đều xây bằng đá. Từng chi tiết xây cất, đẽo gọt đá, gỗ ván đã thể hiện sự khéo léo, tinh tế, đặc sắc của tay nghề những người thợ dân gian bản địa.

http://rmcst.gov.vn/Upload/image/Caonguyen%20da%20DongVan.jpg
Thời Pháp thuộc, Vương Chính Đức đã giành được quyền tự trị đất Đồng Văn. Người kế nhiệm Vương Chí Thành đã ngăn giữ không cho người Nhật xâm nhập vào Đông Văn. Cách mạng tháng 8 thành công, Vương Chí Thành giao đất Đồng Văn cho chính quyền cách mạng quản lý. Bác Hồ kết nghĩa huynh đệ với Vương Chí Thành, những năm 60 thế kỷ trước ông được Bác Hồ mời về sống ở Hà Nội để có điều kiện chăm sóc sức khoẻ tuổi già.
http://vigmr.vn/vi/files.php?file=temp/f02b906c37c5a3625e6015bf15f242a7_460870629.jpg
Điểm cực Bắc của Tổ quốc và cũng là trung tâm của cao nguyên đá là thị trấn Đồng Văn. Nơi đây là xứ sở độc đáo về khí hậu và địa hình “Đất rộng mênh mông nhưng không được bao nhiêu thước bằng phẳng - Trời quanh năm không được vài ngày nắng”. Khu phố cổ Đồng Văn được hình thành từ thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 19. Tuy thời điểm xây dựng không đồng nhất nhưng cung cách kiến trúc đều có nét khá tương đồng: nhà hai tầng, tường đá xanh, khung nhà gỗ không có mộng thắt, không chạm trổ cầu kỳ, mái lợp ngói âm dương… Hiện nay còn lưu giữ 20 ngôi nhà có niên đại trên 100 năm. Dinh thự họ Vương và khu phố cổ Đồng Văn đã được nhà nước công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia. Phố thị Đồng Văn còn là nơi tiêu biểu của những nét văn hoá truyền thống của các dân tộc ở cao nguyên.
http://www.cinet.gov.vn/UploadFile/thumbnails/13_14_22_10_265.jpg
Những ngày hội dân gian, các ngày phiên chợ hàng tháng, người người từ các bản làng gần xa tụ hội về đông vui tấp nập, màu sắc trang phục sặc sỡ, đẹp mắt; cả không gian tràn ngập tiếng cười nói, lời ca ngọt ngào, âm thanh đàn, khèn, sáo du dương, quyến rũ. Người lớn tuổi, thanh niên không phân biệt nam nữ gặp nhau trong các hàng quán bình dân, tuỳ lứa tuổi và sức khoẻ, họ mời nhau chén rượu ngô thơm nồng, bát thắng cố béo ngậy, bát cháo ẩu tẩu vừa có vị đăng đắng lại ngòn ngọt… những món ẩm thực đặc sản, ai được thưởng thức một lần là nhớ mãi….
http://www.vietnamplus.vn/avatar.aspx?ID=84558&at=0&ts=300&lm=634365545475500000

Từ thị trấn Đồng Văn ngược thẳng về phía Bắc khoảng 20 cây số là xã Lủng Cú, mỏm địa đầu của đất nước, nhìn lên bản đồ Việt Nam, cái chóp nhô cao như một mũi mác, chính là đất Lủng Cú. Những ngọn núi xếp lớp đơn nguyên nơi đây là điển hình của loại đá trầm tích, loại đá cổ nhất của trái đất. Lũng Cú ở độ cao gần 1800 mét. Đứng giữa xứ sở này, ta có cảm giác như đang sống bồng bềnh giữa mây ngàn gió núi; mây trắng bời bời phủ che trên đầu, trôi lững lờ dưới chân, bao quanh lẩn quất bên mình.
http://rmcst.gov.vn/Upload/image/nocnha2to.jpg

Tại thôn Séo Lũng, cách trung tâm xã gần 5 cây số có ngọn núi Rồng, cột cờ Tổ quốc dựng trên đỉnh núi, sát cột mốc số 17 biên giới Việt - Trung. Tên núi Rồng đã có từ lâu đời, do đồng bào địa phương đặt. Một sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa tên núi nơi địa đầu Tổ quốc với dòng dõi con Rồng cháu Tiên của dân tộc ta. Lá cờ đỏ sao vàng với diện tích 54 mét vuông - tượng trưng cho 54 dân tộc anh em ngày ngày kiêu hãnh tung bay giữa trời xanh, khẳng định chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc ta. Bao thế hệ qua, bất chấp mọi khó khăn nguy hiểm, mọi áp lực, những người dân thuộc hai dân tộc kiên cường Mông, Lô Lô ở Lũng Cú đã không tiếc mồ hôi, xương máu để bảo vệ quốc kỳ, bảo vệ lãnh thổ thiêng liêng. Lớp lớp người dân Lũng Cú xứng đáng với niềm tin, sự kính phục của nhân dân cả nước.
http://cinnamonhotel.files.wordpress.com/2010/02/vung-nui-da-ha-giang3.gif
Trên đoạn đường phía Tây từ thị trấn Đồng Văn qua Mèo Vạc là ngọn đèo Mã pí lèng, một cảnh quan địa mạo tuyệt đẹp. Đứng trên đỉnh đèo ta có cảm tưởng chỉ vài sải tay là có thể với được tới trời. Dưới chân đèo, bên hữu, ở độ sâu hơn 1000 mét là dòng sông óng ánh bạc Nho quế, con sông lớn nhất của cao nguyên bắt nguồn từ Lũng Cú, luồn lách, ẩn hiện qua nhiều dãy núi đá để đưa nước về hợp lưu với sông Gâm, chi nhánh lớn của Lô giang.http://kienviet.net/upload/2010-10/img_0618.jpg
Phía tả đèo, một thung lũng hẹp hun hút dưới sâu với đôi ba chục nóc nhà nhỏ tựa lưng vào dãy núi đá vời vợi, một ngôi làng quá heo hút nhưng lại được khá nhiều người không chỉ Hà Giang biết đến, bởi hàng năm ở đây diễn ra một phiên chợ đặc biệt: chợ tình khau vai, mỗi năm chỉ họp một lần vào cuối mùa xuân. Gọi chợ tình là theo nghĩa thông tục, chứ ở đây, người về chợ là để giao lưu tình cảm, tình yêu đôi lứa, không hề có chuyện mua bán hiện đại. Chợ tình khau vai hay gọi đúng hơn ngày hội tình yêu - tình bạn là một trong những nét văn hoá truyền thống đáng trân trọng của các dân tộc Đồng Văn. 
Cho đến nay, cảnh vật, con người trên cao nguyên đá Đồng Văn - Hà Giang vẫn giữ được khá đậm đà những nét hoang sơ, kỳ vĩ, tinh khiết có sức lôi cuốn đối với du khách trong và ngoài nước.


http://www.vntravellive.com/upload/admin/10_06_2010/resized_Nha_Vuong%20(09).jpg
dinh họ Vương thuộc địa phận xã Sà Phìn
dinh họ Vương thuộc địa phận xã Sà Phìn
Trong tour du lịch về miền đá Đồng Văn, Lũng Cú, không ai muốn bỏ qua cơ hội thăm di tích nhà họ Vương, một dinh thự cổ ngủ vùi giữa thung lũng sa mộc, hội tụ nhiều giá trị kiến trúc Trung Hoa và người Mèo Hà Giang. Người ta vẫn gọi đây là dinh vua Mèo.
Mái ngói âm dương phân lớp theo kiến trúc cổ
Dinh vua Mèo ở huyện Đồng Văn, cách Hà Nội chừng 500km, sau khi vượt qua những chặng đường men theo sườn núi, ngoằn ngoèo như những sợi chỉ, vượt qua Cổng trời Quản Bạ. Nơi đây, một thời, ông Vương Chính Đức đóng Cổng trời lại, xưng vương. Miền đá tỉnh Hà Giang hiếm có một ngôi nhà có kiến trúc độc đáo thế này. Mấy chục năm qua, những ai lên đến Hà Giang thường không bỏ qua di tích này.
Nhà họ Vương nằm nép mình dưới tán rừng cây sa mộc cổ thụ, cao vút. Những phần nhà xuống cấp đã được phục hồi nguyên trạng. Toàn bộ hệ thống tường thành được xếp bằng đá nhẵn thín với phiến đá to, chẳng cần vôi vữa mà vẫn vững chắc. Nhà được bố trí theo kiểu cung điện Trung Hoa, được phân ra nhiều khu: phòng khách, phòng ngủ, nhà bếp, nhà kho, phòng của vợ ông Vương Chính Đức, hay nhà thờ. Trước cổng của ngôi nhà là ngôi mộ bằng đá chạm khắc tinh vi, là mẹ ông Vương Chí Sình, đại biểu Quốc hội các khoá I, II, III. Nơi đây còn lưu giữ một số hình ảnh về ông vua mèo oai phong lẫm liệt. Qua cổng chính là đến ba, bốn lần cổng nhỏ. Dọc hai bên hành lang của dãy nhà cao nhất là dãy nhà ngang, nhà dọc, bố trí từ thấp lên cao (theo lối kiến trúc Trung Hoa), phần trên là ảnh thờ ông Đức phóng to khi còn làm bang tá. Có cầu thang đi lên khu pháo đài, lỗ châu mai, có kè đá tảng. Các hạng mục chủ yếu được phục dựng bằng gỗ và đá. Một số đồ dùng xưa như tủ quần áo, lò sưởi của gia đình họ Vương vẫn được lưu giữ như những tín vật.
http://www.dulichvn.org.vn/nhaptin/uploads/images/0-aa-dinhthuhovuon.jpgTại Sà Phìn, khác hẳn những vùng đá tai mèo khắc nghiệt, cái lạnh đến thấu xương thấu thịt. Vào mùa xuân, hoa bung nở trắng xoá. Đến đây, bắt gặp vùng tam giác mạch, bạc hà, chứng tỏ sự tốt tươi, đầm ấm. Đứng trên núi cao, nhìn xuống thung lũng Sà Phìn, những thân sa mộc cổ thụ như hình cây nấm. Cả một rừng sa mộc bao bọc lấy dinh thự. Hiện giờ, một số giai thoại về ông Đức vẫn được người dân nhắc lại rằng: nhà họ Vương giàu nứt vách. Vương cho người sang Tàu mời thầy địa lý về xem thế đất để dựng nhà. Ông thầy cao tay đã chọn được thế đất “đắc địa”. Ngày chiến tranh biên giới, thị trấn Phó Bảng tan hoang, cây đổ nhà sập, còn nhà Vương vẫn còn nguyên. Người dân phải sơ tán, nhà họ Vương bị bỏ hoang. Ngôi nhà trải qua nhiều biến cố của thời gian. Một trong những chàng rể của “nhà Vương” đã từng thèm rượu, dỡ một cánh cổng lớn của di tích đem bán. Rồi khu nhà trở thành khu chăn nuôi trâu bò. Chúng phóng uế tràn ngập từ trong ra ngoài. Một thời gian dài, nơi đây trở thành nhà trụ sở tạm thời của xã. Giải thích vì sao bom đạn không trúng di tích, thì nhìn vào thực tế địa lý là ngôi nhà nằm nép mình dưới thung lũng của xóm Lũng Hoà, nên đạn đi cầu vồng, bị mắc cả vào núi. Xung quanh Sà Phìn là các bản người Mèo, du khách có thể đi lại, tham quan, tìm hiểu những nét văn hoá của người vùng cao, thăm đồn biên phòng Phó Bảng… Muốn đi cho thoả miền đá Hà Giang thì phải mất chừng nửa tháng, có khi hơn nữa. Còn đi nhanh các huyện Đồng Văn, Mèo Vạc, Bắc Mê thì cũng mất năm ngày. Điều đặc biệt, du khách đến với vùng cao Hà Giang, sẽ được chiêm ngưỡng “đặc sản” đá tai mèo, những mái nhà lợp bằng ngói âm dương, bờ rào đá. Hay trên khắp những triền núi cao, từ hốc đá mọc lên những lên ngô cường tráng, đầy sức sống. Hà Giang sẽ để lại trong lòng du khách những ấn tượng, để về nhà ngơ ngẩn không biết mình đang luyến tiếc điều gì.http://www1.laodong.vn/Images/2010/11/6/toancnhPhcvachngVnjpg-103556
https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjjCBAKRFk41D2AdJGwIX1f8lws4Jn7nexW9TiMImvMN-8cmPanOv3eF01Um3f27pusthqttJn-7PlhCjojXA6_X92SULLJNBzCKDdJvXibpSIbEZe8Oa_hiG558iaHJ1tPlXBy_eDK4jOL/s1600/Ph%E1%BB%91+c%E1%BB%95+%C4%90%E1%BB%93ng+V%C4%83n_02_www.NghiengVietnam.net.jpgchợ Đồng Văn
http://www.mangdulich.com/vietnam-tourism/2009/uploads/spaw2/images/vungcao6.jpgchợ Đồng Văn
Sáng ngày thứ 6, chúng tôi dùng điểm tâm tại khách sạn, chúng tôi trả phòng, khởi hành đi thăm quan chợ Đồng Văn. Sau đó, chúng tôi khởi hành đi thăm Lũng Cú điểm cực Bắc địa đầu tổ Quốc, chúng tôi thăm quan và chụp ảnh lưu niệm tại cột mốc cực Bắc địa đầu tổ Quốc. Ăn trưa tại thị trấn Yên Minh, sau đó chúng tôi tiếp tục khởi hành về thị xã Hà Giang nhận phòng, ăn tối. Nghỉ đêm tại Hà Giang. Tối ngồi uống trà, ăn bánh với cậu tour guide, tôi mới nghe kể chuyện về ông bí thư Nông Đức Tuấn, về chuyện đồng bào dân tộc thiểu số ai cũng biết đến loài hoa anh túc (cây thuốc phiện) có mặt trên từng bản làng, nương rẫy của đồng bào người Thái, người Mông... suốt từ Nghệ An đến biên giới Việt - Trung. Loài cây này dễ trồng, đơm hoa kết trái trắng ngần cả cánh rừng. Trước kia các “ông vua mèo” thống lĩnh chuyên tập kết buôn bán hàng trắng, sau này là các "trưởng bản" kết hợp với các ông trùm ma túy; thậm chí có sự tiếp tay của công an nữa. Bây giờ quốc tế giúp VN thay đổi cuộc sống của họ nhưng hỏi mua “hàng trắng” (heroin) thì dễ như lật lòng bàn tay. Phải nói là các cậu tài xế, tour guide này biết nhiều thật !
http://d3.violet.vn/uploads/previews/blog/906/diemcuc1.jpghttp://seablogs.zenfs.com/u/aniB9.GfEQP2xLsZ7dBBgSJIlq5OpZPTqK0-/photo/ap_20110603091420800.jpghttp://www.camnanggiadinh.com.vn/Data/img/image/Tin%20tuc/Giai%20tri/Du%20lich/Du%20lich%204%20phuong/18/Anh_bai_B.jpgLũng Cú - điểm cực Bắc địa đầu Tổ Quốc
Anh_2_Nui_rong_va_cot_co
Ảnh: Núi Rồng và cột cờ Lũng Cú điểm cực bắc Việt Nam
Sáng ngày thứ 7, dùng điểm tâm tại khách sạn, khởi hành theo quốc lộ 2 qua Chiêm Hoá và đường 279. Bỏ lại sau lưng Cao nguyên đá Đồng Văn – Hà Giang với điểm cực bắc Lũng Cú, phiên chợ Đồng Văn đậm đà bản sắc dân tộc vùng cao như trăm năm về trước, đèo Mã Pí Lèng được ví hiểm trở bậc nhất vùng núi biên viễn phía Bắc chúng tôi lên thuyền cao tốc, xuôi dòng sông Gâm hướng tới Nhà máy thủy điện Tuyên Quang trong một buổi sáng đầy sương mùa và giá lạnh.. Sông Gâm với chiều dài non 300km là phụ lưu của sông Lô, xuất phát từ tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) chảy đến Cao Bằng rồi nới rộng ra sau khi nhận thêm nước từ sông Nho Quế ở Lũng Cú (Hà Giang). Nó tiếp tục chảy quanh co như dải lụa qua Bắc Mê và hợp lưu với sông Năng đổ vào lòng hồ. Đầu năm 2008 khi cửa đập thủy điện Na Hang (Tuyên Quang) đóng lại, mực nước khu vực lòng hồ dâng lên giúp thông suốt tuyến đường nối huyện Bắc Mê (Hà Giang) với Na Hang theo sông Gâm và nối với hồ Ba Bể qua sông Năng. Hà Giang - Tuyên Quang - Bắc Kạn đang được kéo lại gần.
Thuyền rời bến chừng mươi phút, trước mặt chúng tôi dòng sông bỗng mở rộng mênh mông giữa đôi bờ là những dãy núi đá vôi gối lên nhau trùng điệp. Thuyền lúc lướt qua đại ngàn xanh thẳm, lúc phải tránh đám cây khô rậm rạp trên mặt nước, dấu vết cho biết một thời nơi đây từng là rừng. Người ta kể: khắp sông ngòi phía Bắc nối tiếng năm loại cá quý hiếm được ví là “ngũ quý hà thủy” gồm Anh Vũ, cá Chiên, Dầm xanh, cá Lăng, cá Bông thì hầu hết đều có mặt, sinh sản ở sông Gâm. Song ngày nay vì môi trường thay đổi và bị ngư dân khai thác ráo riết, thậm chí bằng mìn, hay xiết điện ngay còn trứng nước nên chúng đang có nguy cơ tuyệt chủng. Riêng loại cá Anh Vũ, tương truyền xưa kia chỉ dành tiến Vua tuy vẫn tồn tại nhờ sống trong hang sâu, hốc đá dưới đáy sông nhưng số lượng chẵng còn là bao.
Anh_3_Song_Nho_Hue
Ảnh: Sông Nho Quế nhìn từ Đèo Mã Pí Lèng
Sau khoảng hai giờ, thuyền cập bến Na Hang đối mặt dãy núi Pác Tạ cao nhất trong quần thể 99 ngọn núi bao quanh lòng hồ, hình dáng tựa con voi phục bên cửa sông. Cách đó không xa là khu vực đập tràn và Nhà máy thủy điện Tuyên Quang lớn thứ nhì miền Bắc sau thủy điện Hòa Bình.
Băng ngang núi Pác Tạ, sang phía tả ngạn sông Gâm, thuyền bắt đầu ngược dòng sông Năng giữa những vách đá cao ngất. Sông càng lúc càng quanh co theo các vạt rừng hoặc lượn vòng các đảo đá vôi. Dưới tán cổ thụ nghiêng mình sát mặt sông là vài con thuyền bé tẻo teo gác chèo, thả câu, gợi nhớ những vần thơ trong bài Thu điếu của Nguyễn Khuyến.
Anh_4_Tren_song_Tuyen_Quang
Ảnh: Trên sông Gâm Tuyên Quang
Bỗng nhiên xuất hiện trước mặt nhiều thân cây khô nữa chìm nữa nổi khắp mặt sông, đồng thời là lúc thuyền tấp vào bến đò Tà Kèn thuộc Vườn Quốc gia Ba Bể. Kế tiếp là là vượt dốc thăm bản làng của người Tày, Nùng, Dao và thác Đầu Đẳng. Theo cô Lộc Thị Thu Huyền - Hướng dẫn viên Vườn Quốc Gia, thác Đầu Đẳng cao 53m, dài gần 2km, đổ nước sông Năng xuống hẻm núi theo dạng thắt cổ chai. Thác được kiến tạo cách đây 11.000 năm sau một trận động đất lớn, khiến vô số đá tảng từ vách núi rơi xuống làm sập trần các hang động suốt chiều dài hàng chục kilômet, lộ ra dòng sông ngầm. Một mặt đá lấp đầy đáy sông tạo nên con đập chắn nước tự nhiên, hình thành hồ Ba Bể. Nhưng đoạn sông đó chưa phải là nơi đẹp nhất. Sau khi tách khỏi thượng nguồn sông Gâm ở Pắc Miếu (Bảo Lâm, Cao Bằng), sông Năng chảy về hướng Nam qua Chợ Rã (Bắc Kạn) rồi xâm thực lòng núi đá vôi Lũng Nham suốt hàng triệu năm, tạo ra động Puông huyền ảo lung linh có chiều dài 300m, trần động có chỗ cao đến 50m với nhiều chòm nhũ đá ngoạn mục và là hang của đàn dơi hơn 10.000 con.
Anh_6_Dong_Phun
Ảnh: Thác Đầu Đẳng – Ba Bể
Chúng tôi thăm Ba Bể khi mặt trời nghiêng hẳn về phía Tây, bóng núi đã lan dần lên bản làng bên sông, dưới gềnh đá dĩa ven hồ từng đàn thủy cầm đang lao xao ngụp lặn tìm mồi, chợt nghe động , tức khắc chúng bay loáng thoáng trên mặt nước vài ba mét rồi tiếp tục xà xuống hồn nhiên bơi lội như trêu chọc những vị khách phương xa mãi dõi mắt nhìn theo. Giữa trời nước bao la, trên mặt hồ đã được công nhận là Vườn Di sản ASEAN vào năm 2004, ai nấy như nín thở để chiêm ngưỡng một bức tranh thủy mặc khổng lồ, xa xa là những núi đá vôi lô nhô, ẩn hiện sau làn sương trắng, những cánh rừng nguyên sinh ngút ngàn, gần hơn là những hàng cây mọc trong đá nghiêng xuống mặt hồ, thoang thoảng hương thảo mộc.
Bất giác, từ trong màn sương xuất hiện con thuyền độc mộc với cô gái Tày trong bộ trang phục màu chàm đang khua nhẹ mái chèo đưa khách ngược xuôi trên lòng hồ. Hình ảnh ấy càng làm thăng hoa cảnh sắc Ba Bể.
ANH_CHOT_Anh_5_Thac_Dau_Dang
Ảnh: Động Puôn – Vườn Quốc gia Ba Bể
Quá trình vận động kiến tạo, thiên nhiên khá hào phóng khi ban tặng cho Vườn Quốc gia Ba Bể nhiều danh thắng kết hợp giữa vẻ đẹp nên thơ, hữu tình sông hồ với sự ngoạn mục, hùng vỹ của rừng nguyên sinh trên những dãy núi đá vôi cáctơ cổ, ( một dạng đá vôi bị xâm thực thành hang động ) … đặc biệt là hệ thống 20 sơn động, trong đó có động Hua Mạ (tiếng Tày là “đầu ngựa”) đẹp nhất, huyền ảo nhất, cách hồ Ba Bể 6km, mới được các nhà thám hiểm địa chất phát hiện cách đây không lâu.
Trong khi phần lớn hang động thường nằm dưới chân núi, Hua Mạ lại ở lưng chừng núi - cao 350m so với mặt biển - nên còn được người bản địa gọi là động Treo. Hua Mạ gắn liền với một truyền thuyết của người Tày: xưa kia dân địa phương hay thả đầu và đuôi ngựa xuống sông để làm lễ vật hiến tế thần linh.
So với đường bộ đi cùng qua các điểm, tuyến đường thủy sông Gâm - sông Năng sẽ rút ngắn hành trình ít nhất 250km và nhờ nó mà giao thông, sự hợp tác phát triển du lịch giữa bốn tỉnh Hà Giang - Bắc Kạn - Cao Bằng - Tuyên Quang sẽ thuận tiện hơn, chưa kể du khách sẽ được thưởng ngoạn cảnh quan thật quyến rũ, kỳ thú.
http://dulich.tuoitre.vn/ImageView.aspx?ThumbnailID=467255Mấy năm nay con đường thủy lộ trên dòng sông Gâm – sông Năng khiến khoảng cách giữa Hà Giang – Tuyên Quang – Bắc Cạn đã được kéo lại gần và đây là 1 trong những trọng điểm du lịch của miền Đông Bắc VN hôm nay. Thành thật mà nói thì ngồi thuyền trên sông vẫn thích hơn ngồi xe suốt ngày; ít ra cũng mát mẻ hơn và thoải mái ngắm nhìn cảnh vật hoang sơ ở 2 bên bờ sông.
Du khách dừng chân trên đỉnh đèo Mã Pí Lèng
Sông Gâm trong một buổi sáng đầy sương mù
Đảo đá trên sông Gâm, phong cảnh kỳ thú không kém vịnh Hạ Long .
Sông Năng xâm thực lòng núi đá vôi Lũng Nham suốt hàng triệu năm, tạo ra động Puôn có chiều dài 300m, trần động có chỗ cao đến 50m với nhiều chòm nhũ đá ngoạn mục.
Chiều: Tới Ba Bể chúng tôi đi thuyền tham quan dọc theo Hồ 1, Hồ 2 và Hồ 3 tham quan động Puông bí ẩn, thác Đầu Đẳng kỳ vĩ, thăm Ao Tiên, đảo Bà Goá. Thích nhất là đi du thuyền thăm hồ Ba Bể, hồ Pé Lầm, Pé Lù, Pé Lèng rồi đi thăm đảo An Mã, thác Đầu Đẳng, Ao Tiên trước khi dùng bữa tối & nghỉ đêm tại Ba Bể.
Khi thời tiết vào hè, đi biển thường là lựa chọn tốt nhất cho các ngày nghỉ cuối tuần hay nghỉ lễ. Tuy nhiên, ít ai biết rằng để tận hưởng không khí mát lành, phong cảnh có sơn có thủy thì cách Hà Nội chừng 200km về phía bắc, có một hòn ngọc xanh đang ẩn mình chờ đón khách du lịch. Đó chính là Hồ Ba Bể (Bắc Kạn), nơi mà cả một phức hệ bao gồm hồ, sông, suối, núi rừng, hang động đã giữ cho nước hồ có nhiệt độ trung bình cả năm 22 độ C.



Nước hồ trong xanh in bóng những thảm cây mát dịu




Nước trong tới mức bạn có thể nhìn rõ những loài thuỷ sinh dưới đáy

Với 87 loài cá nước ngọt đặc trưng vùng đông bắc, 620 loài thực vật, gần 300 loài động vật chim thú, Ba Bể đã được UNESCO công nhận là khu Ramsar – vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế thứ 3 của Việt Nam sau 2 khu Xuân Thuỷ (Nam Định) và Bàu Sấu (Đồng Nai).



Thảm thực vật đa dạng và trù phú




Hàng trăm con bướm dập dờn bên mặt nước




 Thăm rừng nguyên sinh trong vườn quốc gia

Hồ Ba Bể là 1 trong 100 hồ nước ngọt lớn nhất thế giới và nằm trong 20 hồ nước ngọt được đưa vào danh sách đặc biệt bảo vệ của toàn cầu. Hồ được hình thành cách đây hơn 200 triệu năm trong cuộc kiến tạo lục địa Đông Nam Á cuối kỉ Camri. Khối lượng nước ngọt khổng lồ nằm lưng chừng núi đá vôi mà Hội địa chất Bỉ đã khẳng định có niên đại 450 triệu năm, được chia làm 3 nhánh Pé Lầm, Pé Lù và Pé Lèng thông nhau (tiếng Tày Pé là hồ).



Hồ phẳng lặng treo lơ lửng giữa núi như tấm gương tạo nên một hình ảnh kì lạ gây sự tò mò và ngỡ ngàng của thị giác




Một nhánh của sông Năng khi chuẩn bị xuyên qua lòng núi




Đá vôi trở thành đá hoa cương là điều vô cùng độc đáo và hiếm thấy ở đây

Bạn có thể dành 1 ngày với cụm thăm quan tất cả các điểm bằng thuyền gắn máy với giá 550.000đ và thưởng thức sự thư thái trên mặt hồ với hành trình lênh đênh giữa núi rừng sông nước, tận hưởng hương cỏ cây ngọt mát hoặc đơn giản chỉ là ngồi đọc một cuốn sách hay.



Du ngoạn bằng thuyền trên hồ Ba Bể

Với độ sâu từ 20-30m, chiều dài hơn 8km, rộng khoảng 5km, hồ có nhiều hang động và suối ngầm ẩn hiện kì thú tạo nên những hang động làm say lòng người. Đầu tiên là động Puông dài 300m, cao hơn 30m với nhiều nhũ đá màu sắc ấn tượng huyền ảo do dòng Năng xuyên qua khối Lũng Nham tạo ra.





Nhũ đá màu sắc ở động Puông




Dòng Năng qua động Puông, nơi du khách có thể đi thuyền qua




Lạc vào thế giới cổ tích với vô vàn nhũ đá muôn hình ở động Hua Mạ

Dịu dàng qua động Puông, dòng sông Năng chuyển mình sôi động thành thác Đầu Đẳng khi bị hàng trăm tảng đá lớn chặn lại ở bản Húa Tạng với 3 bậc thác chênh nhau 3 – 4 mét. Tiếng thác reo có thể nghe thấy ngay từ khi bước chân từ bến thuyền vào khoảng 100m làm bước chân thêm háo hức. Có thể ngồi ngắm thác trên những phiến đá lớn hoặc trên ban công gỗ xây phía trên cao với sự thư thái tận hưởng.


 
Thác Đầu Đẳng

Hòn Pò Giả Mải – tức Gò Bà Góa nơi đặt tấm bia đá niên hiệu Khải Đinh năm thứ 9 (1925) ghi lại truyền thuyết về sự hình thành Ba Bể, tuy nhỏ nhưng có những cây lớn thả rễ sum xuê và những góc nhìn mát rượi.



Một góc nhìn từ Hòn Bà Goá

Câu ca véo von về con người nơi đây từ xưa như một sự khẳng định “Bắc Kạn có suối đãi vàng, có hồ Ba Bể có nàng áo xanh”. Những người sinh sống ở khu vực này chủ yếu là dân tộc Tày với hình ảnh đặc trưng trên con thuyền độc mộc và bên cây đàn Tính.



Đãi tép ở Ba Bể




Những ruộng lúa nước ở Ba Bể




Những nếp nhà sàn trong xanh mướt cây

Con người hiền lành, cảnh vật hữu tình, còn chần chờ gì nữa mà không lên đây nghe tiếng chèo khua mái trong sóng nước dập dờn, trong văng vẳng tiếng đàn tính và dìu dịu hương rừng, để thấy lòng thật yên bình sau những bộn bề cuộc sống.
http://www.dulichvietnam.com.vn/Image.ashx/image=jpeg/e3893a3e62284018b3be1d1b21a49768-Babe.jpg/Babe.jpghttp://www.skydoor.net/Download?mode=entry&id=1372http://quehuongonline.vn/Uploads/LibraryImages/dn_du_xuan_ba_be_(7).jpg
http://farm3.static.flickr.com/2234/2188957554_089bf5e225_o.jpgđộng Puông
http://www.skydoor.net/Download?mode=photo&id=6193thác Đầu Đẳng kỳ vĩ
http://www.vnppa.org.vn/imgupload/babe_14.jpgAo Tiên
http://files.myopera.com/3HetSo/blog/92FBFC1518DA444AA3B7C6D74D14B363.jpgđảo Pò Gia Mải (đảo Bà Goá)
Tuyên Quang có hơn 300 điểm di tích lịch sử văn hoá, di tích cách mạng. Trong đó nổi tiếng là di tích Tân Trào - thủ đô kháng chiến, thuộc huyện Sơn Dương, đây là nơi ở và làm việc của bộ phận lãnh đạo Việt Cộng trong những năm kháng chiến chống Pháp. Tỉnh còn có khu rừng nguyên sinh Nà Hang, thác Mơ, suối khoáng Mỹ Lâm.
Tân Trào là xã nằm trong thung lũng nhỏ ở Đông Bắc huyện Sơn Dương (Tuyên Quang) được bao bọc bởi núi Hồng ở phía Đông, núi Thoa, ngòi Thia ở phía Nam, núi Bòng ở phía Tây… Để đến được Tân Trào, trước đây chỉ có 2 đường mòn xuyên qua rừng rậm và đèo cao. Ngày nay, đến Tân Trào đã có đường ô tô rất thuận tiện. Tân Trào là tên mới, được hợp nhất từ hai xã Tân LậpHồng Thái vào năm 1945 (trước đây còn gọi là Kim LongKim Châu). Ngày nay Tân Trào có nhiều di tích lịch sử quan trọng như đình Tân Trào, đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào, lán Nà Lừa, hang Bòng Dưới bóng cây Đa của làng Tân Lập, chiều ngày 16 tháng 8 năm 1945, quân Giải phóng Việt Nam làm lễ xuất quân, Võ Nguyên Giáp đã đọc Bản Quân Lệnh số 1 và ngay sau đó quân Giải phóng đã lên đường qua Thái Nguyên tiến về giải phóng Hà Nội.
Sáng ngày thứ 8, dùng điểm tâm tại khách sạn, trả phòng, khởi hành đi Cao Bằng theo quốc lộ 3. Qua 250km, chúng tôi tới Cao Bằng. http://www.vietbalo.vn/images/Dia_diem_tham_quan/thixacb1.jpgTX Cao Bằng
Chiều: Đi thăm khu du lịch thác Bản Giốc - một trong những thác nước đẹp nhất Việt Nam nằm ở địa phận xã Đàm Thuỷ, huyện Trùng Khánh, từ độ cao trên 30m những khối nước lớn đổ xuống qua nhiều bậc đá vôi làm tung lên vô vàn hạt bụi trắng toả mờ cả một vùng rộng lớn. Thác Bản Giốc là thác đẹp thuộc hàng đệ nhất danh thác Việt Nam. Thác Bản Giốc nằm trên biên giới VN và Trung Quốc, thuộc xã Đàm Thủy, huyện Trùng Khánh, cách thị xã Cao Bằng 89 km, theo tỉnh lộ 206 về phía bắc.Điều thú vị trong chặng đường gần 400 km từ Hà Nội lên tới thác Bản Giốc, là du khách có thể tha hồ ngắm cảnh đẹp. Qua cửa kính xe ô tô, núi rừng hùng vĩ xen kẽ trùng trùng điệp điệp nối vào nhau. Những cánh đồng ngát xanh, vạt hoa dại bên đường, nếp nhà yên bình nép mình bên núi, bầy trâu lọt thỏm giữa cánh đồng làm nao lòng du khách.

Thác Bản Giốc nằm trong dòng chảy sông Quây Sơn, bắt nguồn từ Trung Quốc, chảy qua biên giới hai nước VN và Trung Quốc, uốn lượn quanh chân núi Cô Muông, qua những cánh đồng thuộc địa phận Đàm Thủy. Gần cuối dòng chảy, dòng sông Quây Sơn đổ từ độ cao hơn 30 mét xuống dưới chân núi tạo thành dòng thác hùng vĩ, sủi bọt trắng xóa. Thác Bản Giốc được chia làm hai phần, phía nam là thác cao, phía bắc là thác thấp. Thác thấp là thác chính, hùng vĩ hơn, tiệp mình vào núi rừng rộng lớn nay đã thuộc TQ. Hôm chúng tôi đến, nhìn từ xa, dòng nước chảy từ trên cao xuống tựa những sợi tơ trắng xóa đang nằm vắt vẻo uyển chuyển trên núi rừng hoang sơ. Nước sủi tung bọt, ầm vang. Ánh nắng hắt trên nước, lấp lánh sáng. Vẻ đẹp, sự thuần khiết, hùng vĩ hòa quyện vào nhau.

Dòng sông dưới chân thác khá phẳng lặng, có thể đi thuyền tham quan. Ở đây có dịch vụ chèo thuyền đưa khách tham quan toàn bộ thác Bản Giốc và những cánh rừng, đồng ruộng bên bờ Quây Sơn. Cuối chiều, mặt trời xuống, ngắm nhìn thác nước tuôn trào, cảm giác thật lạ. Gió biên cương thổi lành lạnh, nhìn mặt sông xanh ngắt, lại ngước lên nhìn dòng nước tuôn trào, tựa như phun ra từ núi, đủ khiến niềm xúc cảm không tên trong lòng trỗi dậy.

Ở Bản Giốc, đến nay vẫn chưa phát triển dịch vụ ăn, ngủ cho khách du lịch. Vì vậy, chiều buông, chúng tôi phải lên xe về lại thị trấn Trùng Khánh tìm chỗ nghỉ ngơi. Nhưng không vì trở ngại nhỏ đó mà du khách phiền lòng. Bởi, chính sự hoang sơ nơi ngọn thác biên cương là điều làm người ta thấy thú vị.
http://testcafef.vcmedia.vn/Images/Uploaded/Share/2010/11/02/caobang.jpg
TX Cao Bằng
http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2011/04/thacnuoc4592.jpg
http://viettraveltips.com/userfiles/thac%20ban%20gioc.jpghttp://www.skydoor.net/Download?mode=entry&id=1291thác Bản Giốc
http://du-lich.chudu24.com/f/d/090217/suoi-pacbo.jpg?c=1&w=450Sáng ngày thứ 9, dùng điểm tâm tại khách sạn, chúng tôi trả phòng rồi khởi hành đi qua 200km để tham quan khu di tích Pắc Bó - nơi ở và hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những năm kháng chiến từ 1941 đến 1945. Từ thị xã Cao Bằng đi tiếp 52km đến xã Trường Hà, huyện Hà Quảng du khách có thể tới thăm Khu di tích Pác Bó. Pác Bó có nghĩa là “đầu nguồn” theo tiếng bản địa. Nơi đây được coi là cội nguồn của Cách mạng Việt Nam bởi địa danh này gắn với một giai đoạn lịch sử đặc biệt quan trọng trong cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh và cách mạng nước ta những năm 1941-1945, chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Sau 30 năm đi tìm đường cứu nước, ngày 28 tháng 01 năm 1941, qua cột mốc biên giới số 108, Nguyễn Ái Quốc (tên gọi của Hồ Chí Minh lúc đó) đã trở về tổ quốc để trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Tại đây, http://www.skydoor.net/Download?mode=photo&id=4806Quốc đã có nhiều chủ trương và quyết định quan trọng cho cách mạng tháng Tám năm 1945: Chủ trì hội nghị lần thứ VIII của Trung ương Đảng từ 10/05 đến 19/05/1941, xác định nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng nước ta, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh, biên soạn các tài liệu cách mạng, tổ chức các lớp tập huấn chính trị, quân sự, sáng lập báo “Việt Nam độc lập” - cơ quan truyên truyền của Mặt trận Việt Minh, thành lập đội du kích Pác Bó.
Từ Pác Bó, Nguyễn Ái Quốc đã đi nhiều nơi ở Cao Bằng, nhiều lần sang Trung Quốc bắt liên lạc với các lực lượng cách mạng Việt Nam và đồng minh. Trong chuyến đi Trung Quốc ngày 13/08/1942, Quốc đã bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam đến ngày 10/09/1943 mới được trả tự do. Cuối tháng 09/1944, Quốc trở về Pác Bó tiếp tục chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Đầu tháng 12/1944, tại Nà Sác, Quốc đã ra chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân - tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay. Ngày 04/05/1945, Quốc rời Pác Bó về Tân Trào (Tuyên Quang) để chỉ đạo tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Ngày 20/02/1961, Hồ chí Minh về thăm lại Pác Bó sau 20 năm xa cách.
http://www.skydoor.net/Download?mode=photo&id=4809http://mw2.google.com/mw-panoramio/photos/small/35673445.jpghttp://mw2.google.com/mw-panoramio/photos/small/35673445.jpghttp://i257.photobucket.com/albums/hh205/phuongnt2945/Sang%20Cao%20Bang/canhbenduong2.jpg
http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2011/04/thacnuoc4592.jpg
http://viettraveltips.com/userfiles/thac%20ban%20gioc.jpghttp://www.skydoor.net/Download?mode=entry&id=1291thác Bản Giốc
http://du-lich.chudu24.com/f/d/090217/suoi-pacbo.jpg?c=1&w=450Sáng ngày thứ 9, dùng điểm tâm tại khách sạn, chúng tôi trả phòng rồi khởi hành đi qua 200km để tham quan khu di tích Pắc Bó - nơi ở và hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những năm kháng chiến từ 1941 đến 1945. Từ thị xã Cao Bằng đi tiếp 52km đến xã Trường Hà, huyện Hà Quảng du khách có thể tới thăm Khu di tích Pác Bó. Pác Bó có nghĩa là “đầu nguồn” theo tiếng bản địa. Pắc Bó (Cao Bằng) là một dãy núi đá vôi chạy dài, nằm ngay sát đường biên giới Việt - Trung, có nhiều hang động đá vôi kín đáo và suối nước ngọt chảy quanh năm. Đặc biệt nơi đây có hang Pắc Bó thuộc huyện Hà Quảng tỉnh Cao Bằng mà Bác Hồ từng trú lại một thời gian. Từ thị xã Cao Bằng lên đến núi Kác Mác có dòng suối Lênin. Vào đến khu di tích Pắc Bó, cách thị xã Cao Bằng khoảng gần 1 giờ xe, đường nhiều núi, đèo cao cua gấp. Nơi đây được coi là cội nguồn - "thánh địa" của Việt Cộng bởi địa danh này gắn với một giai đoạn lịch sử đặc biệt quan trọng trong cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh và Việt Cộng những năm 1941-1945, chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Ngày 28 tháng 01 năm 1941, qua cột mốc biên giới số 108, Nguyễn Ái Quốc (tên gọi của Hồ Chí Minh lúc đó) đã trở về tổ quốc để trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Tại đây, http://www.skydoor.net/Download?mode=photo&id=4806Quốc đã có nhiều chủ trương và quyết định quan trọng cho cách mạng tháng Tám năm 1945: Chủ trì hội nghị lần thứ VIII của Trung ương Đảng từ 10/05 đến 19/05/1941, xác định nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng nước ta, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh, biên soạn các tài liệu cách mạng, tổ chức các lớp tập huấn chính trị, quân sự, sáng lập báo “Việt Nam độc lập” - cơ quan truyên truyền của Mặt trận Việt Minh, thành lập đội du kích Pác Bó.
Từ Pác Bó, Nguyễn Ái Quốc đã đi nhiều nơi ở Cao Bằng, nhiều lần sang Trung Quốc bắt liên lạc với các lực lượng cách mạng Việt Nam và đồng minh. Trong chuyến đi Trung Quốc ngày 13/08/1942, Quốc đã bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam đến ngày 10/09/1943 mới được trả tự do. Cuối tháng 09/1944, Quốc trở về Pác Bó tiếp tục chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Đầu tháng 12/1944, tại Nà Sác, Quốc đã ra chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân - tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay. Ngày 04/05/1945, Quốc rời Pác Bó về Tân Trào (Tuyên Quang) để chỉ đạo tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Ngày 20/02/1961, Hồ chí Minh về thăm lại Pác Bó sau 20 năm xa cách.
http://www.skydoor.net/Download?mode=photo&id=4809http://mw2.google.com/mw-panoramio/photos/small/35673445.jpg
http://mw2.google.com/mw-panoramio/photos/small/35673445.jpghttp://i257.photobucket.com/albums/hh205/phuongnt2945/Sang%20Cao%20Bang/canhbenduong2.jpg
http://dulichvietnam.asia/vn/images/PacBo1.jpg2.jpg
Chiều:chúng tôi đi qua 150km về khu du lịch Hồ Núi Cốc.
http://www.vietnamtravellook.com/vn/images/stories/diemden/news24.JPG
khu du lịch Hồ Núi Cốc
Sáng ngày thứ 10, dùng điểm tâm tại khách sạn xong rồi đi thuyền tham quan Hồ Núi Cốc; ăn trưa xong, chúng tôi khởi hành về Hà Nội.
Chiều: chúng tôi về tới Hà Nội, rủ nhau đi thưởng thức ẩm thực phố cổ với bánh cốm Hàng Than, các loại ô mai Hàng Đường, mắm tép chưng thịt Hàng Bè, bún chả Hàng Mành, bún đậu mắm tôm ngõ Phất Lộc, miến trộn Lê Ngọc Hân, cháo sườn Nhà Thờ, bánh cốm chấm tinh dầu cà cuống ở Lương Văn Can, bún ốc nguội Ô Quan Chưởng, vịt om sấu Quán Thánh, bánh tôm Hồ Tây, phở cuốn hồ Trúc Bạch... Nghe thấy ham nhưng khác khẩu vị nên nói thật là tôi chịu thua, không thấy ngon gì hết !

Ngủ 1 đêm ở
Hà Nội, sáng hôm sau chúng tôi lại đi loanh quanh phố phường Hà Nội để đợi đến chiều thì ra ga Trần Quý Cáp đi Lào Cai - Sapa và Hà Khẩu(VK Mỹ không được qua cửa khẩu TQ nên sẽ ở lại bên này để shopping), chúng tôi ngủ luôn trên xe lửa.http://laocaitourist.vn/uploads/News/pic/small_1256606845.nv.jpg Lào Cai

Lào Cai là tỉnh vùng cao biên giới nằm phía Tây Bắc Việt Nam cách Hà Nội 296 km theo đường sắt và 345 km theo đường bộ. Phía đông giáp tỉnh Hà Giang; phía tây giáp tỉnh Sơn La và Lai Châu; phía nam giáp tỉnh Yên Bái, phía bắc giáp tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) với 203 km đường biên giới. Cách ngày nay hơn vạn năm, con người đã có mặt tại địa bàn Lào Cai. Thời Hùng Vương dựng nước, vùng đất Lào Cai thuộc bộ Tân Hưng, là một trong 15 bộ của Nhà nước Văn Lang - là một trung tâm kinh tế chính trị lớn ở thượng nguồn sông Hồng. Đến đời Đinh, Lý, Trần, Lê có biết bao biến động về địa danh... Đến đời nhà Nguyễn, vùng đất Lào Cai chủ yếu thuộc đất của châu Thuỷ Vỹ, châu Văn Bàn, một phần thuộc châu Chiêu Tấn và một phần nhỏ thuộc châu Lục Yên thuộc phủ Quy Hoá. Đến thời điểm này địa danh Lào Cai chưa được hình thành.Ngủ 1 đêm ở Hà Nội, sáng hôm sau chúng tôi lại đi loanh quanh phố phường Hà Nội để đợi đến chiều thì ra ga Trần Quý Cáp đi Lào Cai - Sapa và Hà Khẩu(VK Mỹ không được qua cửa khẩu TQ nên sẽ ở lại bên này để shopping), chúng tôi ngủ luôn trên xe lửa.Sáng hôm sau, chúng tôi đến Lào Cai và tour guide đón chúng tôi đi ăn sáng rồi khởi hành đi Sapa ngay. Trên đường đi, chúng tôi ghé tham quan khu du lịch Thác Bạc – Nơi đây đã đi vào thơ ca “Sapa Thạc Bạc Cầu Mây, Cô Đào Bích Nhị ngất ngây lòng người’’. Chúng tôi ghé ăn trưa và thích thú thưởng thức các món ăn ẩm thực của Sapa, chủ yếu là các món nướng & lẩu . Các món Nướng như Ngựa nướng, lợn bản xiên nướng, cá suối nướng cơm lam nướng, cá hồi nướng và nhiều món nuớng khác. Đặc biệt là các món nướng được nướng bằng than hoa tại bàn, không khói mang phong vị ẩm thực vùng cao thực Sa pa.Thắng cố và rượu ngô cũng là 2 món phổ biến nhất ở vùng này.
Thắng cố là một món ăn của dân tộc Mông. Thắng cố biến âm của tiếng Thoảng, cố theo tiếng Mông có nghĩa là "nồi nước". Ngày xưa, người Mông nấu thắng cố bằng thịt ngựa, cách nấu cũng rất đơn giản. Thịt được ướp với muối, mỳ chính, thảo quả. Sau đó đổ thịt vào trong một cái chảo lớn, đảo đều cho miếng thịt săn lại thì đổ nước vào.
Bây giờ, thắng cố thường không được nấu với thịt ngựa nữa mà chủ yếu là thịt trâu, thịt bò, thịt dê, thịt heo, nhưng có lẽ ngon nhất vẫn là thịt bò. Khi con vật được giết mổ, rửa sạch và để riêng từng bộ phận, lấy xương chân và xương ống đem ninh đến khi nhừ thì cho thịt vào, miếng thịt chín tái thì cho lòng, gan, tim, dạ dày vào.
Ta có thể thấy niềm vui, sự đam mê, sự trân trọng cội nguồn của từng người Mông khi nấu món thắng cố. Họ cẩn thận ướp gia vị cho từng miếng thịt thơm đậm đà, múc từng muỗng bọt cho nồi nước thêm trong. Nồi thắng cố to sôi lục bục nổi lên những tảng mỡ to màu vàng nhạt điểm xuyến bằng những lá hành xanh ngắt, mùi thơm của thịt, của thảo quả, địa điềm quyện lại khiến ta có cảm giác chìm đắm trong tinh hoa thiên nhiên của đất trời ban tặng.
Vào quán gọi món thắng cố, ít phút sau thắng cố được mang lên. Đó là một cái nồi lẩu, như mọi cái nồi lẩu khác. Nước sôi sùng sục, bốc khói nghi ngút, chỉ cần ngửi mùi thôi là cảm giác thèm ăn trỗi dậy.
Chai rượu được rót ra. Đây là rượu nấu bằng gạo, nhưng không phải là thứ men như ở dưới xuôi. Nó trong vắt, thơm ngái một chất lá và được giới thiệu là uống không bao giờ đau đầu.
Lượt thứ nhất lách cách cụng, dốc ngược đáy chén. Rồi những đôi đũa thay nhau lật tìm trong nồi lẩu ăm ắp. Đây là miếng dạ dày, đây là miếng ruột non, đây là miếng tiết, đây là miếng gan... Còn đây miếng cật, miếng tim, miếng vai... Tất cả được thái nhỏ, vừa gắp. Đúng là có mùi là lạ, đặc trưng, nhưng ăn được ngay, thấy ngon được ngay. Lại thêm bát tương, thìa gia vị, miếng chanh, lát ớt, đĩa rau thơm, rổ rau cải... Cái món thắng cố xa lạ đã thành gần gũi. Rượu cứ thế rót ra nhộn nhịp, thôi thì đủ lý do để dốc ngược chén cùng nhau. Uống rồi bắt tay, bắt tay thật chặt. Người ta bảo uống rượu Tây Bắc là uống mỏi tay.

Nhà thờ đá Sa Pa

Vào một ngày đông lạnh giá còn gì thú vị hơn là ngồi ăn một tô thắng cố nóng hổi, nhấm chén rượu ngô nóng, hàn huyên cùng bạn bè. Đây cũng là một nét văn hoá rất điển hình trong phong cách sống của người Mông.
Du khách đến Tây Bắc, lên những dãy núi hùng vĩ, ngồi bên hồ nước trong vắt và trong những niềm vui giản dị đơn sơ là bát thắng cố và rượu ngô nóng. Mùi thơm ấy, hương vị đậm đà quyến rũ ấy có lẽ sẽ không bao giờ quên được, nó sẽ đọng lại trong mỗi người khách khi đặt chân lên vùng đất đẹp và hiền hoà này.
http://www.dulichao.com/wp-content/uploads/2010/03/hamrong.jpgnúi Hàm Rồng
Chiều: Chúng tôi chinh phục núi Hàm Rồng, tham quan Vườn Lan, Vườn Đào, Hòn Con Cóc, Sân Mây, Cổng trời, Vườn Đà Điểu’’. Ngắm toàn cảnh thị trấn Sapa từ độ cao 1700m.
http://a9.vietbao.vn/images/vi902/2006/10/20625286-images1131729_4.jpgChợ Tình Sapa
Tối: May mắn là tối thứ bảy,
chúng tôi đi chơi Chợ Tình Sapa và "giao lưu" với các đồng bào dân tộc: người Mông, người Dao. Thú thật là tôi hơi thất vọng vì thực tế hoàn toàn khác với điều mà tôi hằng ....tưởng tượng và mong đợi. Con gái người Mông, người Daongười Nùng, người Giấy,v.v... cũng không đẹp và cao như tôi nghĩ. Tôi cũng được nghe về Chợ Tình Khâu Vai và những chuyện tình đẹp như cổ tích của người Nùng, người Giấy, người Mông, người Dao... Thời kinh tế thị trường nên Sapa và các sắc tộc thiểu số hôm nay cũng thay đổi khá nhiều và không ít những điều không hay đã tràn vào khắp các ngõ ngách của từng bản làng, từng con người. Tôi cố tình săn lùng cảnh tắm tiên nhưng cuối cùng cũng thất vọng ra về mà không có 1 tấm ảnh nào để làm kỷ niệm.
http://sapa-fansipan.com/admin/uploads/67900-Sapa.v1.jpgSáng hôm sau, chúng tôi đi tham quan khu du lịch Cát Cát, tìm hiểu đời sống, phong tục tập quán của người H’Mông, thăm thác Cát Cát... để tìm hiểu phong tục tập quán của người H'mông bản địa, xem cách thức dệt vải, làm thổ cẩm... Sau đó đi qua cầu treo tới thăm thuỷ điện cũ của người Pháp. Nhìn VN khai thác kỹ nghệ du lịch, tôi bất chợt có nhiều ý kiến muốn đóng góp nhưng xem ra ít ai thèm lắng nghe nên ...đành cỡi ngựa xem hoa như mọi người mà hy vọng một ngày nào đó, khi VN bước qua thời kỳ "quá độ" thì sẽ làm tốt hơn thôi. 16 năm qua, mỗi lần về VN, tôi đều có thể thấy được nhiều "đổi mới" nhưng cũng nảy sinh thêm nhiều vấn đề cần chấn chỉnh, sửa đổi và rút kinh nghiệm. Thôi thì ở đâu cũng có luật lệ riêng của nơi đó nên khi về VN, tôi cũng phải hiểu luật chơi của VN mà thôi.http://tin180.com/wp-content/blogs.dir/6/files/2010/05/Lao-Cai-Len-Cat-Cat-xem-hoi-cua-nguoi-Mong_Tin180.com_001.jpglễ hội tại bản Cát Cát

Làng Cát Cát thuộc huyện Sa-Pa, tỉnh Lào Cai, cách trung tâm thị trấn Sa-Pa 2km.
Làng Cát Cát là bản lâu đời của người Mông, còn lưu giữ nhiều nghề thủ công truyền thống


Bản Cát Cát trong sương sớm
Làng Cát Cát là bản lâu đời của người Mông, được hình thành từ giữa thế kỷ 19, các hộ gia đình cư trú theo phương thức mật tập: dựa vào sườn núi và quây quần bên nhau, các nóc nhà cách nhau chừng vài chục mét. Phần lớn nhà cửa đều đơn giản, chỉ có một cái bàn, cái giường và bếp lửa nấu nướng... Kiến trúc nhà cửa của đồng bào nơi đây còn nhiều nét cổ như nhà ba gian lợp ván gỗ pơmu hay bộ khung nhà có vì kèo ba cột ngang…

Làng Cát Cát có 100% đồng bào dân tộc Mông với nghề thủ công truyền thống là nghề chế tác đồ trang sức bằng bạc hay bằng đồng, nhôm. Sản phẩm chạm bạc ở Cát Cát rất phong phú, tinh xảo nhất là đồ trang sức của phụ nữ như: vòng cổ, vòng tay, dây xà tích, nhẫn...

Trang sức bằng bạc hay bằng đồng, nhôm -
sản phẩm thủ công truyền thống của bản Cát Cát
Một điều hấp dẫn nữa của làng Cát Cát là người Mông ở đây còn giữ được khá nhiều phong tục tập quán độc đáo, chẳng hạn như tục kéo vợ hay các lễ hội được tổ chức vào các thời điểm đầu xuân hoặc tháng cuối hè và mùa thu. Tuy chỉ có quy mô nhỏ và diễn ra trong phạm vi của làngvới các nghi lễ cúng "thổ ty” - "thổ địa" – những vị thần được thờ là những người có công lập làng nhưng mang đậm nét sinh hoạt văn hoá cộng đồng độc đáo của dân tộc thiểu số phía Bắc Việt Nam.

Tôi cũng có dịp tìm hiểu về các món ăn độc đáo của dân tộc Mông. Người Mông ở Cát Cát có rất nhiều món ăn với cách chế biến phong phú độc đáo: rượu ngô Mông, thắng cố, thịt hun khói "khăng gai", tiết canh gà, nhái nấu măng, bánh ngô, món đậu xị...
Cát Cát là điểm du lịch tìm hiểu văn hóa người dân tộc gắn với thiên nhiên hoang sơ, một địa chỉ thích hợp cho những khách du lịch đã mệt mỏi với đời sống đô thị.

bản Cát Cáthttp://pvst.com.vn/upload/image/SP-BC2.jpgđi qua cầu treo tới thăm thuỷ điện cũ của người Pháp.
http://thanhbinhhotel.net/home/images/stories/cat%20cat%20waterfall1.jpgthác Cát Cát
Chiều:
chúng tôi đi mua sắm đồ lưu niệm tại chợ Sapa, khám phá thị trấn Sapa.
Sáng hôm sau, chúng tôi tiếp tục đi chơi quanh thị trấn Sapa, tham gia phiên chợ vùng cao cùng đồng bào dân tộc vùng Tây Bắc, mua sắm các mặt hàng lưu niệm tại chợ Sapa, ăn trưa tại nhà hàng địa phương trước khi làm thủ tục trả phòng và trở lại thành phố Lào Cai. Chúng tôi ghé ăn trưa và mua sắm tại Chợ Mậu Biên Cốc Lếu. Ăn tối tại nhà hàng thành phố Lào Cai trước khi đáp chuyến tàu về Hà Nội.http://www.vietnamopentour.com.vn/images/Outbound/Trungquoc/conminh.jpg
http://saigontoserco.com/files/news/lao_cai(1).jpg
Lào Cai

Lào Cai là tỉnh vùng cao biên giới nằm phía Tây Bắc Việt Nam cách Hà Nội 296 km theo đường sắt và 345 km theo đường bộ. Phía đông giáp tỉnh Hà Giang; phía tây giáp tỉnh Sơn La và Lai Châu; phía nam giáp tỉnh Yên Bái, phía bắc giáp tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) với 203 km đường biên giới. Cách ngày nay hơn vạn năm, con người đã có mặt tại địa bàn Lào Cai. Thời Hùng Vương dựng nước, vùng đất Lào Cai thuộc bộ Tân Hưng, là một trong 15 bộ của Nhà nước Văn Lang - là một trung tâm kinh tế chính trị lớn ở thượng nguồn sông Hồng. Đến đời Đinh, Lý, Trần, Lê có biết bao biến động về địa danh... Đến đời nhà Nguyễn, vùng đất Lào Cai chủ yếu thuộc đất của châu Thuỷ Vỹ, châu Văn Bàn, một phần thuộc châu Chiêu Tấn và một phần nhỏ thuộc châu Lục Yên thuộc phủ Quy Hoá. Đến thời điểm này địa danh Lào Cai chưa được hình thành.

Vùng đất thị xã Lào Cai ngày nay xưa kia có một khu chợ, dần dần người ta mở mang thêm một phố chợ. Vì thế phố chợ đầu tiên này theo tiếng địa phương được gọi là Lão Nhai (tức Phố Cũ). Sau này người ta mở thêm một phố chợ khác gọi là Tân Nhai (Phố Mới ngày nay). Theo cố giáo sư Đào Duy Anh, từ Lão Nhai được biến âm thành Lao Cai và được gọi một thời gian khá dài. Khi làm bản đồ, người Pháp viết Lao Cai thành Lào Kay. Danh từ Lào Kay đã dược người Pháp sử dụng trong các văn bản và con dấu. Nhưng trong giao tiếp và dân gian người ta vẫn gọi là Lao Cai. Sau ngày tỉnh Lao Cai được giải phóng (11-1950), đã thống nhất gọi là Lào Cai cho đến ngày nay.
Sau khi đánh chiếm Lào Cai (3 -1886) và khi hoàn thành công cuộc bình định quân sự, thực dân Pháp cai quản địa hạt Lào Cai theo chế độ quân sự. Ngày 12/7/1907, toàn quyền Đông Dương ra nghị định bãi bỏ đạo quan binh IV Lào Cai, chuyển từ chế độ quân quản sang chế độ cai trị dân sự, thành lập tỉnh Lào Cai. Từ đây địa danh tỉnh Lào Cai được xác định trên bản đồ Việt Nam. Trải qua những biến động thăng trầm của lịch sử, địa lý Lào Cai cũng có nhiều thay đổi. Về địa đanh hành chính,qua nhiều lần tách nhập.
http://megafun.vn/dataimages/201103/original/images477412_cai.jpgVùng đất thị xã Lào Cai ngày nay xưa kia có một khu chợ, dần dần người ta mở mang thêm một phố chợ. Vì thế phố chợ đầu tiên này theo tiếng địa phương được gọi là Lão Nhai (tức Phố Cũ). Sau này người ta mở thêm một phố chợ khác gọi là Tân Nhai (Phố Mới ngày nay).Lên xe quay về Hà Nội, tôi cảm thấy thỏa mãn sau khi đã đến vùng "thánh địa" của mấy ông VC; nhất là đã biết được Điện Biên, Lũng Cú, cây đa Tân Trào - hang Pác Bó - lán Nứa - hang Lenin, núi Các Mác, Sapa, Bản Giốc...
Lên máy bay trở về Saigon, tôi có thể ngồi xem lại những tấm hình và ghi lại nhật ký chuyến đi 10 ngày qua. Về đến TSN, tôi nhận tin nhắn của bạn tôi rủ ra Cần Giờ. Tuy gần Saigon nhưng tôi chưa hề đến Cần Giờ nên sau 2 ngày nghĩ xả hơi, tôi quyết định đi Cần Giờ.
(xem tiếp phần 3)

No comments:

Post a Comment